Năm 2020, Việt Nam phải đối mặt với không ít khó khăn và hệ lụy tiêu cực do đại dịch Covid-19. Trong đó, những cụm từ như “gián đoạn” hay “đứt gãy” chuỗi cung ứng được nhắc đến thường xuyên và thực tế đã có những thời điểm gây ra nhiều quan ngại cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, xuất khẩu vẫn là một cấu phần quan trọng trong “cỗ xe tam mã” để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, Việt Nam đã đạt những kết quả quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc phê chuẩn và thực hiện Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EVFTA) và mới nhất là Hiệp định RCEP vào ngày 15/11/2020.
Phát biểu tại Hội thảo công bố báo cáo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, RCEP không phải nội dung mới mà là kết quả có được sau hơn 7 năm kể từ phiên đàm phán đầu tiên. Ý tưởng về RCEP được hình thành trong bối cảnh gia tăng tự do hóa thương mại và đầu tư ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
Đối với hoạt động thương mại của Việt Nam, RCEP có thể mang lại một số cơ hội và cả thách thức. Bao phủ vùng lãnh thổ với hơn 30% dân số toàn cầu, Hiệp định này tạo ra một thị trường lớn và tiềm năng cho xuất khẩu. Các nghiên cứu định lượng cho thấy, RCEP có tác động đến thương mại, chứ không chỉ là chuyển hướng thương mại.
“Ngay cả với nhập khẩu, Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Cùng với việc gia tăng thương mại hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực”, TS.Trần Thị Hồng Minh thông tin.
Đối với đầu tư nước ngoài, RCEP cũng mang lại cả cơ hội và thách thức đan xen. Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI từ sự dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc do tác động của chiến tranh thương mại Mỹ-Trung hay xu hướng cân nhắc mới trong và sau đại dịch Covid-19.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức như: Việc tiếp nhận và xử lý hiệu quả nhập siêu gắn với FDI ở thị trường RCEP; sàng lọc chất lượng dự án FDI là chủ trương đúng nhưng thực hiện không dễ sau khi RCEP đi vào thực thi; kiểm soát dòng vốn FDI từ RCEP và hệ lụy kinh tế vĩ mô; khó khăn trong cân đối giữa thu hút, bảo vệ nhà đầu tư và quyền xây dựng chính sách của Việt Nam.
Trước những thách thức đó, Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp của CIEM Nguyễn Anh Dương cho hay, báo cáo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định RCEP gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam” đã đưa ra cách tiếp cận để thực hiện hiệu quả RCEP gắn với bảo đảm mức độ tự chủ của kinh tế Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Anh Dương, việc thực hiện hiệu quả RCEP gắn với 5 nhóm giải pháp chính.
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các cải cách đối với nền tảng kinh tế vĩ mô nói chung, bao gồm cả chính sách cạnh tranh, môi trường kinh doanh, các thị trường nhân tố sản xuất.
Thứ hai, đặt chính sách đầu tư ở vị trí trung tâm, gắn sâu xa hơn về một tư duy định hướng, khả thi về một số ngành cần ưu tiên phát triển, các ngành cần thúc đẩy tư do cạnh tranh, mức độ tham gia chuỗi giá trị ở khu vực RCEP và mức độ tự chủ trong thu hút, sử dụng các dự án FDI từ khu vực.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách thương mại, nhất quán với chính sách đầu tư, qua đó, góp phần xử lý hiệu quả, hài hòa hơn vấn đề nhập siêu và nhập khẩu hàng trung gian, đồng thời phù hợp với sự tham gia của doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, xử lý các điểm nghẽn hạ tầng và nguồn nhân lực.
Thứ năm, phòng chống hiệu quả đại dịch Covid-19.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế khi thực hiện RCEP cũng đòi hỏi nỗ lực cùng phát huy vai trò trung tâm của ASEAN. Ở một chừng mực quan trọng, Việt Nam và các nước ASEAN có vai trò trung tâm trong việc hình thành ý tưởng và quá trình đàm phán Hiệp định này, thì phần thực thi cũng phải giữ được vai trò trung tâm.
Báo cáo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam” thuộc khuôn khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam nhằm tiến hành đánh giá hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam với các đối tác trong khu vực Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) (bao gồm cả quy mô và chất lượng); xác định những vấn đề thể chế và cơ cấu đối với hoạt động thương mại và đầu tư có thể ảnh hưởng đến khả năng tận dụng cơ hội và xử lý thách thức từ RCEP. Từ đó, đề xuất các kiến nghị cải cách thể chế trong trung và dài hạn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi RCEP gắn với tăng cường mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.
Gia Thành