- Bối cảnh
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và đời sống ngày càng cao của người dân khiến cho nhu cầu sử dụng điện tăng cao. Từ một nước xuất khẩu tịnh năng lượng, Việt Nam đã trở thành một nước nhập khẩu tịnh về năng lượng và ngày càng phụ thuộc vào việc nhập khẩu các nguồn than và khí hóa lỏng từ nước ngoài. Theo tính toán của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nếu tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của nước ta được duy trì ở mức 7% thì nhu cầu sử dụng điện sẽ ở mức 200.000 GWh vào năm 2020 và tăng lên 327.000 GWh vào năm 2030. Tuy nhiên, các nguồn điện truyền thống, nếu được phát huy tối đa, cũng chỉ đáp ứng khoảng 80% nhu cầu sử dụng điện vào năm 2020, và 60% nhu cầu năm 2030.[i] Lượng điện thiếu hụt sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế, kìm hãm sự phát triển đất nước.
Những nguồn năng lượng điện truyền thống như nhiệt điện, thủy điện, hay điện hạt nhân đã bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình khai thác. Nhiệt điện vốn là nguồn năng lượng chủ yếu của thế kỷ XX, tuy nhiên những tác hại của nó đối với môi trường, khí hậu và sức khỏe con người khiến nhiệt điện ngày càng trở nên “lỗi mốt”. Trong khi đó, thủy điện-nguồn năng lượng chủ yếu của nước ta hiện nay-cũng đã cho thấy tác động không nhỏ đối với môi trường, dòng chảy, hệ sinh thái của các dòng sông, cũng như mùa màng, sinh kế của người dân. Điện hạt nhân, mặc dù được coi là nguồn năng lượng dồi dào và hiệu quả cao, luôn ẩn chứa nhiều rủi ro mà tiêu biểu có thể kể đến sự cố rò rỉ phóng xạ tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (Nga) năm 1986, và gần đây nhất là sự cố nổ lò phóng xạ tại nhà máy Fukusima (Nhật Bản) năm 2011. Vì vậy, phát triển các nguồn năng lượng sạch là nhu cầu bức thiết trên phạm vi toàn cầu.
Trong số các nguồn năng lượng thay thế, điện gió được coi là nguồn năng lượng xanh, dồi dào và có mức độ ảnh hưởng thấp nhất đối với môi trường. Nghiên cứu cho thấy 1GWh điện gió chỉ sản sinh ra khoảng 10 tấn CO2, trong khi 1GWh nhiệt điện than là 830-920 tấn[ii]. Thời gian xây dựng dự án điện gió ngắn hơn nhiều so với điện truyền thống, công nghệ điện gió có thể nói đã phát triển đến mức hoàn thiện. Tại Hoa Kỳ, ngành công nghiệp điện gió có bước phát triển nhảy vọt từ mức 6.000 MW công suất năm 2004 lên 60.000 MW trong năm 2012. Quốc gia này cũng khẳng định tham vọng đưa công suất điện gió lên mức 300.000 MW (tương đương với 20% tổng lượng điện tiêu thụ) vào năm 2030. Tại Đức, tỷ lệ điện gió cũng tăng mạnh từ mức 7,7% tổng lượng điện tiêu thụ năm 2010 lên 9,8% vào năm 2012; tổng công suất điện gió năm 2016 là trên 50.000 MW. Đức cũng lên kế hoạch đến năm 2020 lắp đặt khoảng 1200 tuabin điện gió trên biển với công suất dự tính là 10.000 MW và tăng lên 25.000 MW vào năm 2030. Tại Đan Mạch, tổng công suất năm 2016 đạt 5.225 MW, tỷ lệ điện gió dự kiến sẽ tăng lên 50% vào năm 2020.[iii] Đến cuối năm 2016, tổng công suất lắp đặt điện gió của châu Âu đạt trên 12.600 MW.[iv] Theo dự báo của Viện Năng lượng Quốc tế (IEA), tổng sản lượng điện gió trên toàn thế giới hàng năm sẽ tăng khoảng 100 Terawatt giờ và đến năm 2020 thì điện gió sẽ đạt khoảng trên 1000 GW, chiếm khoảng 15,6% sản lượng điện toàn cầu và hoàn toàn có khả năng thay thế công nghiệp thủy điện.
Phát biểu tại hội nghị “Điện gió Việt Nam: Cơ hội và thách thức” do Hiệp hội điện gió toàn cầu (GWEC), Bộ Công Thương, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Đức và Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 7/6/2018, Tổng thư ký GWEC Steve Sawyer cho biết điện gió là một trong những ngành phát triển nhanh nhất thế giới hiện nay. Chỉ tính riêng năm 2017, tổng vốn đầu tư toàn cầu cho điện gió đạt mức 107 tỉ USD với hơn 1,15 triệu lao động trên toàn thế giới. Với công nghệ ngày càng tiến bộ và sự phổ biến trong khai thác và sử dụng năng lượng gió ngày càng cao, giá thành của điện gió trên thế giới trong những năm gần đây ngày càng giảm, khiến việc phát triển nguồn năng lượng này càng trở nên thuận lợi. Dự án điện gió tốt nhất trên thế giới hiện đang cung cấp điện với giá chi phí khoảng 5 UScents/kWh mà không cần hỗ trợ tài chính.[v] Chính vì vậy, ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn điện gió làm nguồn cung năng lượng chủ yếu. Hiện nay, giá thành điện từ nguồn năng lượng tái tạo (khi không được trợ giá) đã ở mức thấp hơn điện từ nguồn nguyên liệu hóa thạch tại hơn 30 quốc gia. Dự kiến đây sẽ là tình hình chung tại hầu hết các quốc gia trên thế giới vào năm 2025.
- Tiềm năng và thực trạng phát triển điện gió ở Việt Nam
Với lợi thế bờ biển trải dài hơn 3000km, nhiều hải đảo, khí hậu nhiệt đới gió mùa với vận tốc gió thổi trung bình quanh năm từ 5m/s trở lên, Việt Nam có lợi thế rất lớn trong phát triển điện gió. Thêm vào đó, nước ta có địa hình hết sức thuận lợi với 8,6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có tiềm năng từ tốt đến rất tốt để xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn. Theo Ngân hàng Thế giới, nhiều địa phương trong cả nước có lượng gió đủ mạnh để các nhà máy điện gió hoạt động. Khu vực từ nam Bình Thuận đến huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận (giáp với Cam Ranh, Khánh Hòa) là những địa điểm lý tưởng để đặt các tua-bin phát điện từ sức gió. Ngoài việc sức gió đạt hơn 7 m/s, ở khu vực này còn có các đồi cát cao từ 60-100 mét so với mặt biển, lượng gió ổn định và ít chịu ảnh hưởng của các cơn bão. Khảo sát của Ngân hàng Thế giới (WB) khẳng định Việt Nam có tiềm năng điện gió lớn nhất và cao hơn hẳn các quốc gia lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan.[vi] Ước tính, sản lượng điện gió của Việt Nam chỉ riêng trên đất liền có thể đạt khoảng 40-50 nghìn MW, nếu cộng thêm tiềm năng điện gió từ ngoài khơi, Việt Nam có thể phát triển khoảng trên 100 nghìn MW.[vii] Có thể nói, bên cạnh nguồn năng lượng mặt trời thì năng lượng gió được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam bắt kịp tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về nhu cầu điện trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Theo lộ trình đề ra tại Quyết định số 1208/QĐ-TTg ngày 21/07/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch điện VII, Việt Nam sẽ phát triển điện gió từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng 1.000MW vào năm 2020 và 6.200MW vào năm 2030; điện năng sản xuất từ nguồn điện gió chiếm tỷ trọng từ 0,7% năm 2020 lên 2,4% vào năm 2030. Nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/06/2011 (có hiệu lực từ ngày 20/08/2011) về cơ chế hỗ trợ sự phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam. Các ưu đãi bao gồm: miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án; miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (còn lại 10% trong vòng 15 năm, có thể gia hạn trong 30 năm), miễn phí toàn bộ phí bảo vệ môi trường, miễn giảm tiền sử dụng đất và tiền thuê đất đối với dự án và công trình đường dây, trạm biến áp đấu nối với lưới điện quốc gia… Ngoài ra, Chính phủ quy định bên mua điện Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) hay các đơn vị được ủy quyền có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện từ các dự án điện gió, quy định mức giá và hỗ trợ giá bán điện.
Tuy nhiên, việc phát triển điện gió ở Việt Nam thời gian qua còn khá chậm chạp, chưa tương xứng với tiềm năng. Theo số liệu của Bộ Công Thương, tính đến cuối năm 2018, mới có 8 nhà máy điện gió đi vào hoạt động với tổng công suất 243 MW[viii]. Trong đó, tiêu biểu là Nhà máy Điện gió Tuy Phong-Bình Thuận do Công ty Cổ phần năng lượng tái tạo Việt Nam (REVN) phát triển với tổng mức đầu tư khoảng 1.450 tỷ đồng và công suất thiết kế 120MW bao gồm 80 tuabin; Nhà máy Điện gió Bạc Liêu do Công ty TNHH Xây Dựng-Thương mại & Du Lịch Công Lý phát triển với tổng mức đầu tư khoảng 5.300 tỷ đồng và công suất thiết kế 99.2MW; Nhà máy Điện gió Phú Quý-Bình Thuận do Tổng công ty Điện lực dầu khí Việt Nam đầu tư với công suất thiết kế 6MW sử dụng tuabin loại 2,0MW; Nhà máy Điện gió Phú Lạc-Bình Thuận do Công ty Bình Thuận Wind Power JSC đầu tư với công suất thiết kế 24MW gồm 16 tuabin 1,5MW; Nhà máy Điện Điện gió Hướng Linh 2-Quảng Trị do Công ty Tân Hoàn Cầu làm chủ đầu tư, với tổng công suất 30 MW, có vốn đầu tư hơn 1.400 tỷ đồng… Mặc dù vậy, hầu hết các nhà máy này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện các giai đoạn tiếp theo và chưa phát huy được hết công suất thiết kế.
So với số lượng các dự án điện gió đăng ký đầu tư, số lượng các nhà máy bắt đầu đi vào hoạt động như trên là rất nhỏ, trong khi đó có rất nhiều các dự án chậm triển khai. Điều này cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập trong phát triển điện gió ở Việt Nam. “Những khó khăn, rào cản nào khiến cho điện gió phát triển chậm: khó khăn về việc sử dụng đất, về vốn, về đấu nối và giải tỏa công suất, về hạn chế trong việc tiếp cận công nghệ mới và hiệu quả, về nguồn dự phòng hay về cơ chế chính sách… những câu hỏi đó luôn đặt ra cho những nhà quản lý trong quá trình định hướng, xây dựng chính sách phát triển”-Phó Tổng cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) Nguyễn Văn Thành phát biểu tại Hội nghị “Điện gió Việt Nam: Cơ hội và thách thức” diễn ra tại Hà Nội ngày 07/8/2016.
Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân chính khiến quá trình phát triển điện gió chậm triển khai ở nước ta là do chi phí đầu tư còn cao, trong khi giá mua điện gió được cho là chưa đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư. Các dự án năng lượng tái tạo nói chung, trong đó có các dự án điện gió, đều đòi hỏi nguồn vốn lớn, đặc biệt khi hầu hết các thiết bị, linh kiện đều phải nhập khẩu, khiến giá thành bị đội lên. Giai đoạn trước năm 2010, suất đầu tư cho điện gió ở Việt Nam từ 3.500-4.000 USD/KW, tương đương giá điện 15-17 US cents/KWh. Cùng với xu hướng chung trên thế giới, suất đầu tư điện gió ở Việt Nam hiện nay đã giảm nhiều, nhưng vẫn ở mức khoảng 9-10 US cents/KWh. Mặc dù Chính phủ đã có quy định về trách nhiệm của EVN và các đơn vị được ủy quyền về việc thu mua toàn bộ sản lượng điện từ các dự án điện gió, nhưng mức giá quy định (1.614 đồng/KWh, tương đương 7,8 US cents/KWh) được cho là vẫn chưa đủ hấp dẫn với các nhà đầu tư. Mức giá này được áp dụng theo Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/06/2011 (có hiệu lực từ ngày 20/08/2011) về cơ chế hỗ trợ sự phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam. Phải đến gần 8 năm sau, mức giá điện gió mới được nâng lên với sự ra đời của Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018. Theo đó, đối với các dự án điện gió trong đất liền, giá mua điện tại điểm giao nhận điện là 1.928 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, tương đương 8,5 UScents/kWh); đối với các dự án điện gió trên biển, giá mua điện tại điểm giao nhận điện là 2.223 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, tương đương 9,8 UScents/kWh). Thay đổi chính sách này được kỳ vọng sẽ khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn hơn nữa trong đầu tư phát triển điện gió ở Việt Nam.
Ngoài nguyên nhân trên, cơ chế chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ, quy trình thủ tục phê duyệt dự án chưa thực sự minh bạch, mẫu hợp đồng mua bán điện chưa thống nhất theo yêu cầu của các tổ chức tài chính quốc tế, cơ sở hạ tầng giao thông và lưới điện một số khu vực nhiều tiềm năng chưa đáp ứng yêu cầu, dữ liệu đáng tin cậy về địa lý, hải triều, tốc độ gió tại các vùng không đầy đủ, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo trong lĩnh vực điện gió… cũng được cho là những rào cản khiến cho phát triển điện gió chưa thể “cất cánh” ở Việt Nam.
- Một số khuyến nghị
Để đạt được mục tiêu đề ra là đưa mức điện gió lên 1.000MW vào năm 2020 và 6.200MW vào năm 2030, góp phần giải tỏa căng thẳng về nguồn năng lượng thiếu hụt và hướng tới phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, việc xây dựng hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, ổn định, lâu dài cho phát triển điện gió, tăng độ tin cậy cho các nhà đầu tư là yêu cầu bức thiết. Một số giải pháp được các chuyên gia và tổ chức quốc tế khuyến nghị bao gồm:
– Chuẩn hóa hợp đồng mua bán điện (PPA): Hợp đồng mua bán điện là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định chi phí vốn-điểm quyết định sức hấp dẫn của dự án đối với nhà đầu tư. PPA được chuẩn hóa, minh bạch và đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính là cần thiết để giảm rủi ro và chi phí vốn, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc tiếp cận, triển khai các dự án điện gió.
– Đơn giản hóa và minh bạch hóa quy trình phê duyệt dự án: Quy trình phê duyệt dự án rõ ràng, minh bạch và có thời hạn cụ thể là rất quan trọng để giảm tính bất trắc, tăng niềm tin của thị trường và nhà đầu tư.
– Sớm xây dựng và phê duyệt các quy hoạch về phát triển nguồn điện năng lượng tái tạo cấp tỉnh, cấp quốc gia: Với tốc độ tăng trưởng vượt trội được dự báo của ngành điện, cần có quy hoạch và đầu tư để đảm bảo bổ sung thành công nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời vào hệ thống, bởi khi có sự tham gia của năng lượng tái tạo, thiết kế hệ thống truyền tải và phân phối điện cũng sẽ phải điều chỉnh so với thiết kế truyền thống.. Các dự án điện gió nói riêng và năng lượng tái tạo nói chung khi xem xét cần đảm bảo sự phát triển đồng bộ giữa nguồn và lưới điện, đảm bảo khả năng vận hành an toàn, kinh tế của hệ thống điện và hiệu quả đầu tư chung của xã hội.
– Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong quá trình thiết kế, đầu tư xây dựng và quản lý khai thác vận hành các công trình nguồn điện từ năng lượng tái tạo nói chung và điện gió nói riêng; các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho lưới điện đồng bộ với các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo và các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các công trình, thiết bị khác liên quan đến năng lượng tái tạo.
– Đối với các nhà đầu tư, để bảo đảm hiệu quả đầu tư, cần tiến hành nghiên cứu tiền khả thi một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng đối với các dự án điện gió. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng, nhược điểm lớn nhất của năng lượng gió là sự phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chế độ gió. Vì vậy khi thiết kế, cần nghiên cứu hết sức nghiêm túc chế độ gió, địa hình cũng như loại gió.
– Việc đẩy nhanh phát triển năng lượng tái tạo nói chung, điện gió nói riêng cũng cần phải lưu ý đến một số vấn đề như sự không ổn định của công suất phát vì phụ thuộc vào thời tiết, tốc độ gió. Để đảm bảo hệ thống điện vận hành ổn định, cần phải tính đến công suất dự phòng, bù đắp lượng công suất thiếu hụt khi nguồn gió không bảo đảm công suất phát điện. Ngoài ra, cần có các qui định chặt chẽ bắt buộc nhà đầu tư phải lắp đặt các thiết bị điều chỉnh điện áp trước khi nối lưới để bảo vệ lưới điện chung.
– Ưu tiên các dự án điện gió trên bờ thay vì trên các vùng biển ven bờ: Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ), việc xây dựng các tua-bin điện gió trên biển sẽ giúp cắt giảm chi phí sử dụng đất, tuy nhiên chi phí xây dựng tua-bin từ dưới nước lại cao hơn nhiều lần. Bởi vậy, theo khuyến nghị của GIZ, thay vì miễn tiền thuê mặt biển theo chính sách hiện hành, nên ưu tiên cấp đất và miễn tiền thuê đất trên bờ khu vực ven biển cho các nhà đầu tư điện gió. Nhà nước cũng cần có cơ chế hỗ trợ vay vốn hoặc bảo lãnh cho các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực này.
– Khuyến khích và hỗ trợ sản xuất, sử dụng máy phát điện gió cỡ nhỏ phục vụ gia đình cũng là một trong những giải pháp cần triển khai. Các máy phát điện gió loại nhỏ sử dụng cho gia đình không yêu cầu cao về công nghệ, hoàn toàn có thể chế tạo bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với tỷ lệ nội địa hóa ước tính lên tới 80%. Việc “góp gió thành bão” từ những máy phát điện quy mô gia đình sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và nâng cao tỷ lệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo trong cơ cấu các nguồn điện những năm tới./.
Phương Ly
[i] Trần Trí Năng, Lê Khắc Hoàng Lan, Nguyễn Tân Huyền, Trương Trà Hương, Phạm Thanh Tuân,
Nguyễn Xuân Cường, Phạm Thị Hồng, Bùi Mỹ Duyên, Triển vọng phát triển nguồn điện gió tại Việt Nam.
[ii] Nhà máy điện gió Phương Mai I, http://viwico.vn/du-an-dien-gio/nha-may-dien-gio-phuong-mai-i
[iii] Nguyễn Ngọc, Điện gió & quạt gió bơm nước, NXB Bách khoa Hà Nội, 2013.
[iv] Báo Dân trí, 2017, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/bo-cong-thuong-bat-ngo-tang-gia-thu-mua-dien-gio-them-gan-1-cent-20170906063429302.htm
[v] Báo Đấu thầu, 2017, http://baodauthau.vn/dau-tu/phat-trien-dien-gio-bien-tiem-nang-thanh-hien-thuc-38449.html
[vi] Tietkiemnangluong.vn, 2016, http://www.tietkiemnangluong.vn/d6/news/Phat-trien-nang-luong-tai-tao-Tiem-nang-rat-lon-nhung-thach-thuc-con-nhieu-111-110-8870.aspx
[vii] Tập đoàn Điện lực Việt Nam, 2018, https://www.evn.com.vn/d6/news/Phat-trien-nang-luong-tai-tao-Tiem-nang-lon-thach-thuc-cung-khong-nho-6-17-21758.aspx
[viii] Tamnhin,net.vn, 2019, http://tamnhin.net.vn/viet-nam-dang-chung-kien-lan-song-dau-tu-nang-luong-tai-tao-68078.html