Bản tin kinh tế vĩ mô tháng 01 năm 2018 của BIDV

0
522

TỔNG QUAN VĨ MÔ

Bất chấp những bất ổn địa chính trị toàn cầu, kinh tế thế giới đã có sự phục hồi mạnh mẽ trong năm 2017 với sự khởi sắc được ghi nhận ở hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, mở ra triển vọng lạc quan cho năm 2018. IMF đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2018 lên 3,9%, tăng 0,2% so với dự báo trước đó.

Kinh tế Mỹ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng chủ yếu nhờ vào nhu cầu tiêu dùng và đầu tư gia tăng, tăng trưởng kinh tế Q4/2017 ở mức 2,6%, khiến tăng trưởng GDP cả năm 2017 ở mức 2,3%, lạm phát được giữ ở mức dưới 2%. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,1% trong tháng 12/2017, mức thấp nhất trong vòng 17 năm qua, tiếp tục là điểm sáng của bức tranh kinh tế Mỹ. Kinh tế Nhật Bản liên tục tăng trưởng trong 7 quý liên tiếp, đánh dấu giai đoạn tăng trưởng dài nhất trong hơn 15 năm qua nhờ xuất khẩu và đầu tư tư nhân, tăng trưởng năm 2017 ước đạt 1,5%. Tuy nhiên, trong bối cảnh áp lực lạm phát thấp (dưới 1%), Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng cùng các biện pháp nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Kinh tế châu Âu tăng trưởng ở mức cao nhất trong vòng 10 năm qua, ở mức khoảng 2,2%. Các nền kinh tế trong khu vực đều đạt mức tăng trưởng cao, cùng với đó là tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp và lạm phát được kiểm soát. Trước sự tăng tốc của nền kinh tế toàn cầu, kinh tế Trung Quốc đã phục hồi ngoạn mục với tăng trưởng kinh tế Q4/2017 đạt 6,8%, đưa mức tăng trưởng cả năm đạt 6,9%, vượt xa mục tiêu đề ra.

Với những thành công trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội năm 2017, kinh tế Việt Nam tháng 1/2018 tiếp tục ghi nhận một số kết quả khả quan: sản xuất công nghiệp và xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh, thị trường tài chính diễn biến tích cực nhờ công tác xử lý nợ xấu được đẩy mạnh, mặt bằng lãi suất cho vay giảm nhẹ, tỷ giá ổn định. Tuy nhiên, chỉ số CPI tăng mạnh, thu hút FDI giảm so với cùng kỳ là một số vấn đề đáng lưu ý.

TÌNH HÌNH KINH TẾ TRONG NƯỚC THÁNG 01 NĂM 2018

Bảng 1: Số liệu vĩ mô tháng 1 năm 2018

Các chỉ tiêu

01/2016

 01/2017    01/2018

Dự báo Q1/2018

CPI bình quân (%, yoy)

0,8

5,22

2,65

3-3,5

Chỉ số SXCN – IIP (%, yoy)

5,9

0,7

20,9*

24-25

Xuất khẩu (tỷ USD)

13,6

14,28

19

54-55

Nhập khẩu (tỷ USD)
Cán cân thương mại (tỷ USD)

12,77 0,83

13,09 2,3

19,3 (0,3)

55-55,5 (1)-(0,5)

Vốn FDI đăng ký (tỷ USD)

1,45

1,59

1,25

3-3,5

Vốn FDI thực hiện (tỷ USD)

0,8

0,85

1,05

2-2,5

Nguồn: Tổng hợp từ TCTK, Bộ KHĐT và Dự báo của TTNC

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng mạnh

Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 1 ước tăng 20,9% so với tháng 1/2017, chủ yếu do trước Tết nguyên đán là thời điểm các doanh nghiệp tập trung sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết. Mặt khác, mặc dù một số ngành có xu hướng giảm so với cuối năm 2017 nhưng nếu so với cùng kỳ năm 2017, tất cả các ngành đều tăng trưởng tích cực, cụ thể: ngành chế biến, chế tạo tăng trưởng 23,8%; sản xuất, phân phối điện tăng 15,4%; cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 6,8% và khai khoáng tăng 10,5%.

Thị trường hàng hóa bán lẻ và dịch vụ trong tháng 1 diễn biến sôi động

Trước thời điểm Tết Nguyên đán, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tăng cao khiến tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 1 tăng đến 3% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2017, ước đạt 361,1 nghìn tỷ đồng. Nếu loại trừ yếu tố giá, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước tăng 8,38% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng cùng kỳ năm 2017 (6,7%) song vẫn thấp hơn so với mức 11% của tháng 1/2016.

CPI tháng 1/2018 tăng mạnh

Theo Tổng cục thống kê, CPI bình quân tháng 1/2018 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 2,65% so với cùng kỳ năm 2017. Trong tháng 1/2018, ngoại trừ nhóm bưu chính viễn thông, 10/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ còn lại đều có mức giá tăng, trong đó, nhóm thuốc và dịch vụ y tế, nhóm giao thông tăng mạnh nhất (lần lượt ở mức 1,83% và 1,17%). Nguyên nhân khiến CPI tháng 1 tăng mạnh là do: (i) giá dịch vụ y tế tiếp tục được điều chỉnh; (ii) tác động của 2 lần tăng giá xăng dầu vào ngày 4/1 và 19/1; (iii) ảnh hưởng của việc tăng giá điện cuối năm 2017 có tác động đến mặt bằng giá cả và CPI nói chung; và (iv) nhu cầu tiêu dùng của người dân và doanh nghiệp có xu hướng tăng vào tháng giáp Tết.
Xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh, cán cân thương mại thâm hụt nhẹ

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 1 ước đạt 19 tỷ USD, giảm 3,3% so với tháng 12/2017 song tăng mạnh 33,1% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) đạt 13,59 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ 2017. Các sản phẩm thuộc nhóm ngành chế biến, chế tạo tiếp tục duy trì vị thế sản phẩm XK chủ lực với tổng giá trị XK 5 mặt hàng điện thoại; điện tử, máy tính; dệt, may; giày dép và máy móc, thiết bị chiếm khoảng 58% tổng kim ngạch XK hàng hóa tháng 1/2018. Đáng chú ý, trong tháng đầu năm, giá trị XK thủy sản bắt đầu có sự sụt giảm, giảm 18,9% so với tháng trước (dù vẫn tăng 23,8% so cùng kỳ năm 2017), đây có thể là hệ quả đến muộn của quyết định cảnh báo thẻ vàng của EU vào tháng 11/2017. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 1 ước đạt 19,3 tỷ USD, tăng mạnh 47,4% so với cùng kỳ năm 2017, chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất, tiêu dùng tăng cao vào thời điểm giáp Tết. Tính sơ bộ tháng 1, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt khoảng 0,3 tỷ USD, trong đó, khu vực FDI xuất siêu 2,1 tỷ USD, khu vực kinh tế trong nước vẫn nhập siêu ở mức 2,4 tỷ USD. Theo thị trường, Hàn Quốc hiện là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam trong khi Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất với kim ngạch 2 chiều khoảng 10,2 tỷ USD.

Vốn FDI đăng ký giảm so với cùng kỳ

Sau 1 năm thành công trong hoạt động thu hút đầu tư, những kỷ lục về thu hút FDI năm 2017 đã phần nào tạo áp lực cho kế hoạch thu hút FDI năm 2018. Trong tháng 1/2018, Việt Nam đã thu hút được 1.255,4 triệu USD tổng vốn FDI đăng ký, giảm 21% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt 899,4 triệu USD (giảm 36,8%), xu hướng góp vốn, mua cổ phần ngày một gia tăng với tổng vốn góp, mua cổ phần đạt 356 triệu USD (tăng 54,7%). Tổng vốn FDI thực hiện đạt 1.050 triệu USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ. Về cơ cấu ngành, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm đến 83% tổng vốn đăng ký mới và 45,6% tổng vốn góp, mua cổ phần. Về cơ cấu nhà đầu tư, Singapore dẫn đầu về tổng vốn đăng ký cấp mới với 33,4%, tiếp theo là Hàn Quốc (15,9%) và Na Uy (15,8%).

Diễn biến tỷ giá tương đối ổn định

Đến cuối tháng 1/2018, giá USD bán ra tại các ngân hàng phổ biến quanh ngưỡng 22.745 VND/USD còn giá mua vào nằm trong khoảng từ 22.650 VND/USD đến 22.675 VND/USD. Đây cũng là thời điểm thuận lợi theo chu kỳ hàng năm khi các nhu cầu thanh toán đã giảm sau tết dương lịch và nguồn kiều hối về trước tết âm lịch tăng nhanh, do đó, nguồn cung ngoại tệ khá dồi dào. Theo thông tin từ NHNN, chỉ trong vòng 2 tuần đầu tháng 1, dự trữ ngoại hối quốc gia đã tăng thêm hơn 3 tỷ USD và đến nay ước đạt 54,5 tỷ USD.

Mặt bằng lãi suất giảm nhẹ, công tác xử lý nợ xấu được tích cực triển khai

Ngày 10/01/2018, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01/2018/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2018. Theo đó, NHNN đã cụ thể hóa các chỉ đạo của Chính phủ trong Nghị Quyết 01/NQ-CP/2018 thành các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đối với ngành ngân hàng và định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16%, tín dụng tăng khoảng 17%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Đồng thời, NHNN cũng yêu cầu TCTD chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng ưu tiên tập trung vốn cho sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ tiêu được NHNN giao, phù hợp với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng của NHNN; đồng thời đẩy mạnh tái cơ cấu các TCTD gắn với xử lý nợ xấu theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Chính phủ và Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của Quốc Hội.
Ngay từ giữa tháng, lãi suất cho vay đã nhanh chóng giảm theo đúng cam kết tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Ngân hàng năm 2018. Ngày 12/1/2018, NHNN giảm lãi suất cho vay trên thị trường mở (OMO) từ mức 5% được duy trì từ tháng 3/2014 đến nay xuống mức 4,75%/năm. Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) cũng giảm 12% giá sản phẩm, dịch vụ thông tin tín dụng giúp giảm chi phí cho các TCTD. Các NHTMNN đồng loạt giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, đưa về mức tối đa là 6%/năm đối với khoản vay ngắn hạn và 7,5%/năm vay trung và dài hạn.
Công tác xử lý nợ xấu và hiệu quả hoạt động ngành ngân hàng năm 2017 đạt kết quả tích cực. Trong năm 2017, VAMC đã phối hợp với các TCTD thu hồi được 30.700 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu kế hoạch năm 2017 được giao (22.000 tỷ đồng), tăng 2.700 tỷ đồng so với năm 2016. Dự kiến năm 2018, VAMC xử lý được tối thiểu 140.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua; hoàn thành mua nợ xấu theo giá trị thị trường tối thiểu 6.600 tỷ đồng thông qua các giải pháp được phê duyệt. Nhờ nỗ lực xử lý nợ xấu, tiết kiệm chi phí và NIM được cải thiện nhẹ (từ mức 2,5% năm 2014 lên khoảng 2,7% năm 2017), lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2017 đã tăng trưởng trên 20% so với 2016, cao hơn hẳn so với mức 10-15%/năm của các năm trước.
Thị trường chứng khoán tăng mạnh

Diễn biến các chỉ số VNIndex, HNXIndex tiếp tục xu hướng đi lên với tốc độ nhanh, sự cố máy chủ trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa vào ngày 22/1 đã khiến cho giao dịch tại HSX phải tạm ngừng đến sáng 25/1 song không gây ảnh hưởng lớn. Đến ngày 30/1, chỉ số VNIndex đạt 1.105 điểm (tăng hơn 11% so với cuối năm 2017), HNXIndex đạt 126 điểm (tăng 8,3% so với đầu năm). Xu hướng tăng điểm của thị trường trong trung hạn vẫn được duy trì với việc hàng loạt các DN lớn trên sàn mới đây công bố kết quả kinh doanh 2017 tăng trưởng mạnh. Đồng thời, thanh khoản thị trường liên tục gia tăng từ đầu năm cùng với nguồn cung tăng tốt từ IPO các doanh nghiệp lớn như Công ty TNHH MTV Lọc Hóa dầu Bình Sơn (BSR), Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil), Ngân hàng Phát triển nhà TP.HCM (HDBank). Khối ngoại tích cực mua ròng trên thị trường từ đầu năm, tổng giá trị mua ròng trong tháng là hơn 12.400 tỷ đồng. Huy động vốn TPCP của kho bạc nhà nước đạt hơn 16.500 tỷ đồng qua 4 phiên đấu thầu. Trong đó, ngoại trừ phiên đầu tiên, 3 phiên đấu thầu sau đó đều huy động được toàn bộ khối lượng gọi thầu với lãi suất thấp (4,2-6,4% tùy kỳ hạn 10,15 năm), trái ngược với diễn biến cuối 2017. Trên thị trường thứ cấp, mặt bằng lãi suất tiếp tục xu hướng giảm được hình thành từ tháng trước. Mức giảm khoảng 40-60 điểm ở các kỳ hạn ngắn và 10 điểm ở các kỳ hạn dài. Tham chiếu VBMA, giá giao dịch ở quanh mức 3,32%; 3,81%; 4,61%; 4,91% lần lượt với KH 2, 5, 10 và 15 năm.

CHỦ ĐỀ TRONG THÁNG

Bảng 2: Số dòng thuế giảm về 0% từ năm 2018 và một số hàng hóa chịu tác động

Hiệp định thương mại tự do

Số dòng thuế cắt giảm về 0% năm 2018

Tỷ lệ so với tổng số dòng thuế giai đoạn 2018-2022

Hàng hóa chịu tác động

ASEAN – Nhật Bản (AJCEP)

3.426

34%

MMTB, dụng cụ, phụ tùng, sắt thép, NL dệt may, da giày…

Việt Nam – Chile (VCFTA)

2.742

29%

Thức ăn gia súc đã chế biến, hóa chất vô cơ, hóa chất hữu cơ, nhựa, gỗ…

ASEAN – Australia – New Zealand (AANZFTA)

2.337

25%

Vải các loại, may mặc, hàng may mặc, phụ trợ may, ô tô nguyên chiếc…

Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA)

704

7%

Thủy sản, bột mì, chế phẩm bánh kẹo, sắt thép, điện tử…

Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA)

672

7%

Ô tô, xe máy, phụ tùng, linh kiện ô tô xe máy, hoa quả nhiệt đới, đồ điện dân dụng…

ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)

588

6%

Thịt gà, cà phê, chè, nguyên liệu dệt, vải may mặc, quần áo, sắt thép, máy móc…

ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA)

477

5%

Thủy sản, chế phẩm bánh kẹo, nhiên liệu bay, sơn, nhựa…

Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA)

456

5%

Chất béo, đường, cao su, gỗ, bột giấy, máy móc thiết bị…

Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á -Âu (VN-EAEU FTA)

144

2%

Nguyên phụ liệu dệt may, da giày, linh kiện điện tử, phân bón, ngô, lúa mì…

Nguồn: TTNC tổng hợp

Thuế suất thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm về mức 0% và những tác động đến nền kinh tế Việt Nam

Năm 2018 là năm nhiều dòng thuế nhập khẩu (NK) hàng hóa của Việt Nam sẽ giảm xuống mức 0% nhằm hiện thực hóa các cam kết mở cửa thị trường trong các Hiệp định tự do thương mại (FTA) đã ký kết. Từ cuối năm 2017, Chính phủ đã ban hành 10 nghị định mới về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA này, theo đó, biểu thuế giữa ASEAN và Nhật Bản là biểu thuế có số dòng thuế cắt giảm thêm trong năm 2018 lớn nhất, lên đến 3.426 dòng thuế trên tổng số 9.487 dòng thuế, chiếm tỷ lệ 34%.

Bên cạnh đó, mặc dù số dòng thuế giảm về mức 0% năm 2018 của biểu thuế ATIGA tương đối ít, song đây cũng là biểu thuế được dư luận rất quan tâm do có mức giảm thuế suất khá lớn đối với một số mặt hàng như: ô tô dưới 9 chỗ ngồi NK từ các nước ASEAN (giảm từ 30% xuống 0%); linh kiện phụ tùng (giảm từ 5%, 20% xuống 0%)… Trước đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định 125/2017/NĐ-CP nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 122/2016/NĐ-CP với các điều khoản liên quan đến biểu thuế NK ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế NK ngoài hạn ngạch thuế quan. Những quy định mới này chắc chắn sẽ mang lại cả tác động tích cực và tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước (NSNN), hoạt động của doanh nghiệp (DN) và người tiêu dùng.

Thuế nhập khẩu giảm về mức 0% sẽ có ảnh hưởng đến thu NSNN năm 2018 và có một số tác động đến hoạt động của một số doanh nghiệp

Đối với thu NSNN, việc nhiều dòng thuế NK giảm về 0% sẽ làm giảm mức đóng góp vào ngân sách của thuế NK thông qua hai hướng tác động: (i) Tác động giảm thu trực tiếp: do thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước đã ký FTA giảm xuống khi thực hiện các cam kết cắt giảm thuế và (ii) Tác động giảm thu gián tiếp từ chuyển hướng thương mại: xảy ra khi các nhà nhập khẩu chuyển NK hàng hoá từ các nước ngoài FTA sang các nước trong FTA để được hưởng ưu đãi về thuế. Trên thực tế, kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 đến nay, việc xoá bỏ dần các hàng rào thuế quan đã làm tỷ trọng đóng góp của thuế NK vào ngân sách ngày cảng giảm (giảm từ mức trung bình 9% giai đoạn 2006- 2010 xuống còn khoảng 7% giai đoạn 2011-2016 và khoảng 6% năm 2017).

Về mặt tuyệt đối, thu từ thuế NK nhìn chung vẫn duy trì xu hướng tăng trong giai đoạn 2006-2015 mặc dù biến động khá thất thường qua các năm. Riêng giai đoạn từ năm 2015 đến nay, thu thuế NK giảm dần từ khoảng 72,1 nghìn tỷ đồng xuống còn khoảng 65,5 nghìn tỷ đồng (giảm 5%/năm). Với mức giảm này, ước tính mức thuế NK trong năm 2018 sẽ giảm khoảng 3 đến 3,2 nghìn tỷ đồng so với năm 2017. Nếu so với mức giảm trong các năm trước (ví dụ 2010, 2011 và 2016), đây không phải là một mức giảm quá lớn và đã được lường trước trong dự toán NSNN (theo dự toán NSNN năm 2018, thu từ thuế NK khoảng 62 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 4,7% tổng dự toán thu NSNN).

Như vậy, có thể thấy, việc hàng nghìn dòng thuế giảm về mức 0% trong năm 2018 sẽ tiếp tục làm giảm tỷ trọng đóng góp của thuế NK vào mức thu NSNN song không làm giảm thu NSNN một cách đáng kể. Điều này có thể lý giải do: (i) chỉ có khoảng 10% dòng thuế bị tác động khi thực hiện các Nghị định mới, trong đó, có 5% dòng thuế thay đổi thuế suất và 5% dòng thuế điều chỉnh do ảnh hưởng chuyển đổi Danh mục biểu thuế hài hòa ASEAN, đây là những con số khá nhỏ; (ii) việc giảm thuế NK chủ yếu tập trung vào nhóm sản phẩm tiêu dùng (là nhóm chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu hàng hóa NK) trong khi mức thuế suất của nhóm máy móc, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hiện chiếm tỷ trọng lớn sẽ duy trì mức như hiện nay; (iii) từ giai đoạn tham gia ký kết các FTA, Việt Nam đã xác định nguồn thu ngân sách từ hoạt động XNK sẽ giảm, do đó, để đảm bảo nguồn thu và cân đối ngân sách, trong quá trình xây dựng dự toán hàng năm, Bộ Tài chính đã tính đến yếu tố giảm thuế suất thuế NK và chủ động triển khai nhiều giải pháp tái cơ cấu nguồn thu, tăng tỷ trọng thu nội địa (tỷ lệ thu nội địa tăng từ 52% năm 2006 lên 80% năm 2017). Đây chính là giải pháp quan trọng giúp thu NSNN vẫn tăng trưởng qua các năm mặc dù đóng góp của thuế nhập khẩu vào NSNN có xu hướng giảm về mặt tỷ trọng.

Đối với hoạt động của các doanh nghiệp, việc các sản phẩm có thuế suất giảm về mức 0% chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng mà các DN Việt Nam đã sản xuất được chắc chắn sẽ làm gia tăng sức ép lên khả năng tiêu thụ hàng hóa của các DN trong nước. Trong bối cảnh thị trường hàng hóa VN đang bị xâm chiếm mạnh mẽ bởi hàng loạt sản phẩm xuất xứ Trung Quốc, Thái Lan và thậm chí là Hàn Quốc, Nhật Bản, thị phần của các DN Việt Nam nhiều khả năng sẽ ngày càng bị thu hẹp.

Việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu cũng mang lại nhiều tác động tích cực đối với kinh tế vĩ mô, hoạt động của doanh nghiệp và người tiêu dùng

Nhìn nhận ở góc độ tích cực, sự cạnh tranh đến từ hàng hoá nhập khẩu sẽ là động lực thúc đẩy các DN VN cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ, gia tăng năng suất và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, thuế suất thuế NK một số mặt hàng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu giảm xuống cũng tạo cơ hội cho các DN giảm chi phí đầu vào, từ đó giúp giảm giá thành sản phẩm và góp phần gia tăng khả năng cạnh tranh. Chẳng hạn, theo NĐ 125, từ 01/01/2018 đến 31/12/2022, các linh kiện ô tô nhập khẩu thuộc nhóm 98.49 (gồm khoảng 30 bộ) được áp dụng thuế suất thuế NK ưu đãi 0%. Quy định này có thể tạo điều kiện cho các DN sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước phát triển, duy trì sức sản xuất và sức cạnh tranh về giá cả đối với mặt hàng ô tô nhập khẩu nguyên chiếc. Các DN FDI cũng có thể tận dụng cơ hội từ thuế suất thuế NK giảm để tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, trên cơ sở nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu từ các quốc gia, khu vực có ký kết FTA với Việt Nam, góp phần gia tăng sản lượng sản phẩm cũng như thúc đẩy kim ngạch XK hàng hóa của Việt Nam, từ đó làm gia tăng nguồn thu NSNN từ hoạt động XK. Chính những tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sẽ gián tiếp mang lại những lợi ích cho người tiêu dùng trong nước như giúp giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ bên cạnh tác động tích cực trực tiếp của việc giảm thuế suất thuế NK là giúp tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam hơn, từ đó người tiêu dùng trong nước có thêm nhiều sự lựa chọn tiêu dùng hơn.

Với những tác động tích cực kể trên, khu vực doanh nghiệp sẽ có cơ hội đóng góp tích cực hơn vào tăng trưởng GDP nếu nhìn từ góc độ sản xuất, trong khi người tiêu dùng có cơ hội chi tiêu nhiều hơn và thúc đẩy tăng trưởng GDP từ phía cầu.

Giải pháp tận dụng việc thuế suất thuế nhập khẩu giảm về mức 0%

Do tác động của việc giảm thuế suất thuế NK tới các cân đối vĩ mô quốc gia, hoạt động của các DN và xu hướng tiêu dùng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, các cơ quan quản lý cần thường xuyên đánh giá một cách có kế hoạch các tác động này nhằm có lộ trình ứng phó phù hợp. Riêng đối với các chính sách nhằm bảo vệ khu vực sản xuất nội địa, các nhà hoạch định chính sách cần đổi mới tư duy theo hướng tạo điều kiện cho sản phẩm sản xuất trong nước có cơ hội phát triển và cạnh tranh lành mạnh với sản phẩm NK thông qua các chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng thương hiệu thay vì ngăn cản các hàng hóa có chất lượng cao, giá thành tốt của nước ngoài vào thị trường VN trong khi các DN trong nước chưa đủ năng lực sản xuất những sản phẩm thay thế một cách hoàn hảo. Nói cách khác, các hàng rào phi thuế quan nói chung và hàng rào kỹ thuật nói riêng chỉ nên được dựng lên nhằm bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của người tiêu dùng và bảo hộ một cách hợp lý ngành sản xuất nội địa. Từ góc độ DN, việc theo dõi thường xuyên các tác động của chính sách ưu đãi thuế NK nhằm tận dụng tối đa các lợi thế từ các chính sách này là hết sức cần thiết, cùng với đó, DN cần chủ động tăng cường năng lực quản trị, điều hành; chú trọng đổi mới công nghệ; tăng cường liên kết cũng như nâng cao chất lượng, thương hiệu sản phẩm… Về phía người tiêu dùng, việc chủ động tìm hiểu các quy định, cập nhật thông tin nhằm tự bảo vệ quyền lợi của mình, trở thành người tiêu dùng thông minh trong bối cảnh thị trường ngày càng rộng mở là điều hết sức cần thiết.

 File pdf: [TTNC BIDV] Ban tin kinh te vi mo thang 1.2018

 

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here