Chuyên gia Mỹ: Việt Nam là hình mẫu phục hồi sau đại dịch Covid-19

0
115
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng tỏ được vị thế kinh tế tốt hơn mong đợi, một phần nhờ những nỗ lực cải cách có tư duy tiến bộ của các nhà lãnh đạo. (Nguồn: Reuters)

Theo Giáo sư Edmund Malesky, Đại học Duke (Mỹ), câu chuyện phục hồi phát triển thành công của Việt Nam sau đại dịch Covid-19 cho thấy cách các quốc gia có thể nắm bắt cơ hội chuyển mình thông qua sự không ngừng tiến bộ và nỗ lực cải thiện các yếu tố cơ bản thúc đẩy đầu tư.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng tỏ được vị thế kinh tế tốt hơn mong đợi, một phần nhờ những nỗ lực cải cách có tư duy tiến bộ của các nhà lãnh đạo. (Nguồn: Reuters)

Trong một bài viết đăng tải trên East Asia Forum, Giáo sư Edmund Malesky, Giám đốc Trung tâm phát triển quốc tế Duke,  Đại học Duke (Mỹ), đã đánh giá cao chính sách kinh tế và thành tích phục hồi sau đại dịch của Việt Nam. Dưới đây là nội dung bài viết.

Các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam có thể tự chúc mừng mình về thành tích kinh tế xuất sắc trong năm 2022. Việt Nam sẽ kết thúc năm với tư cách là nền kinh tế phát triển tốt nhất ở châu Á, phần lớn nhờ khả năng thu hút đầu tư nước ngoài chuyển từ Trung Quốc sang.

Trong bối cảnh các thị trường mới nổi khác đang tìm cách phục hồi sau ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, nhiều nhà lãnh đạo đang tìm cách bắt chước mô hình của Việt Nam.

Mặc dù người ta thường cho rằng thành công của Việt Nam là nhờ một khuôn mẫu được áp dụng hoàn hảo, nhưng rõ ràng những nỗ lực cải cách trước đây đã giúp Việt Nam tận dụng lợi thế của mình, tạo nên một bước ngoặt tình cờ trong chính trị quốc tế.

Những con số tích cực

Thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 2022 gây ấn tượng mạnh. Ít nhất 11 công ty Đài Loan (Trung Quốc) trong chuỗi cung ứng của Apple đã chuyển đến Việt Nam và các cuộc đàm phán đang được tiến hành để tăng sản lượng máy tính bảng và điện thoại thông minh. Cũng trong năm qua, công ty Lego đã khởi công xây dựng một nhà máy trị giá 1 tỷ USD tại tỉnh Bình Dương, với các tiêu chuẩn môi trường tiên tiến nhằm đạt được lượng khí thải carbon trung tính.

Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại, chẳng hạn như Samsung và Intel, đã tăng cường quy mô và mở rộng hoạt động của họ. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam tăng 15% so với cùng kỳ, có thêm 1570 dự án mới trị giá 9,9 tỷ USD, trong khi tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 5,7% đạt 58,3 tỷ USD. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ lần lượt đạt 7% và 6,5% trong năm năm 2022.

Có thể thấy rằng, sự quan tâm của các nhà đầu tư đến Việt Nam đã tăng dần đều theo thời gian và tăng nhanh hơn vào năm 2018 khi thuế quan của Mỹ làm tăng chi phí kinh doanh tại Trung Quốc. Nhiều công ty sản xuất hàng hóa ở Trung Quốc trong khi duy trì một số cơ sở ở Việt Nam như một hàng rào phòng vệ. Do thuế quan của Mỹ, các công ty này đã thực hiện các hợp đồng bảo hiểm và chuyển hoạt động sản xuất sang Việt Nam.

Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng 40% trong quý I năm 2019 và tăng gần gấp đôi trong các lĩnh vực công nghệ, mục tiêu áp thuế của Mỹ. Nhân công rẻ của Việt Nam là một điểm thu hút khác khi mức lương của công nhân Việt Nam thấp hơn một nửa so với mức lương tương đương ở Trung Quốc vào năm 2019.

Nỗ lực tạo thành công

Trong đại dịch, Việt Nam đã cố gắng giảm thiểu đáng kể các đợt bùng phát Covid-19 thông qua các chiến lược phòng ngừa và tiêm chủng vaccine đồng thời duy trì sức sống kinh tế. Như Nikkei Asia từng xếp hạng Việt Nam nằm trong tốp 10 quốc gia hàng đầu thế giới về khả năng kiểm soát dịch Covid-19, Việt Nam có nền tảng thuận lợi để tiếp nhận các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) rời bỏ các nước khác có nhiều vấn đề hơn trong đại dịch.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng tỏ được vị thế kinh tế tốt hơn mong đợi, một phần nhờ những nỗ lực cải cách có tư duy tiến bộ của các nhà lãnh đạo. Trong đó, đáng chú ý là nỗ lực của Chính phủ Việt Nam nhằm giảm tham nhũng vặt bằng cách hợp lý hóa các thủ tục hành chính và quy định. Những nỗ lực này đã làm giảm tình trạng hối lộ, tham nhũng, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư.

Khảo sát về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2021 đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng phải trả các khoản phí không chính thức trong các giao dịch kinh doanh là điều phổ biến đã giảm từ 66% năm 2016 xuống còn 41% vào năm 2021 và tỷ lệ cho rằng không phải trả bất kỳ chi phí không chính thức nào đạt 41,9%.

Một yếu tố góp phần tạo nên những con số tích cực này là nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc hợp lý hóa các thủ tục hành chính thông qua Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước và Chương trình chuyển đổi số quốc gia. Các nỗ lực quản trị điện tử đã góp phần làm giảm tham nhũng bằng cách loại bỏ các quyền lực tùy ý của các quan chức cấp thấp, hạn chế cơ hội hối lộ thông qua các biện pháp ngăn chặn hành chính và sự thiếu minh bạch về các khoản phí chính thức.

Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam cũng tập trung vào việc cải thiện nguồn nhân lực. Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018 và Bộ Luật Lao động năm 2019 đặc biệt nhấn mạnh việc cải thiện nguồn nhân lực. Mặc dù nhân công rẻ và trình độ văn hóa cao thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng họ thường phàn nàn rằng người lao động Việt Nam thiếu các kỹ năng nghề nghiệp và khó giữ chân người lao động có kỹ năng.

Theo khảo sát PCI năm 2021, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã lạc quan hơn về khả năng cải thiện nguồn nhân lực trong tương lai khi đánh giá giá trị của các chương trình đào tạo kỹ thuật và chuyên môn tại Việt Nam. Xếp hạng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về chất lượng lao động địa phương đã được cải thiện dần đều cho cả giáo dục phổ thông và đào tạo nghề.

Ngoài ra, mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng để cải thiện khả năng thù hút đầu tư cũng là một mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Báo cáo PCI năm 2018 cho thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam không phải là lợi thế so sánh để các doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn địa điểm đầu tư.

Trên thang điểm 6, đánh giá của nhà đầu tư tại Việt Nam đã tăng vọt so với năm 2017 và 2021 về chất lượng đường bộ (từ 3,72 lên 4,44), kết nối cảng với đường cao tốc (từ 4,02 lên 4,49) và kết nối đường sắt – đường cao tốc (từ 3,97 lên 4,41). Đặc biệt, các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp điện tử công nghệ cao thậm chí còn có nhận thức tốt hơn trong tất cả các hạng mục cơ sở hạ tầng.

Tựu chung, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để duy trì và gia tăng đà phục hồi mạnh mẽ này. Tham nhũng tại vẫn chưa gần bằng 0 và nguồn nhân lực cũng như cơ sở hạ tầng vẫn còn những thiếu sót. Tuy nhiên, câu chuyện thành công của Việt Nam sau đại dịch Covid-19 cho thấy cách các quốc gia có thể “biến nguy thành cơ” thông qua sự không ngừng tiến bộ và nỗ lực cải thiện các yếu tố cơ bản thúc đẩy đầu tư.

Thu Trang

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here