Tại Hội nghị “Hỗ trợ doanh nghiệp SMEs tận dụng cơ hội thực thi hiệu quả Hiệp định EVFTA”, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) Vũ Bá Phú nhấn mạnh, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực sẽ mang đến cơ hội đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam.
Song song với đó, cũng có những thách thức buộc doanh nghiệp Việt phải vượt qua. Cụ thể, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ sẽ khốc liệt hơn ngay cả tại thị trường nội địa. Do đó, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, chuyên sâu như nghiên cứu thị trường, thẩm định đối tác, để tận dụng hiệu quả các cơ hội mà EVFTA mang lại.
Còn theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, trong quá trình thực thi các FTA từ trước tới nay, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp SMEs còn tồn tại nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm. Việt Nam có tới 97% là doanh nghiệp SMEs nên yêu cầu, đòi hỏi đặt ra là rất lớn.
Điển hình như khả năng tiếp cận, nắm bắt về khía cạnh thông tin pháp luật, nội dung cam kết trong các hiệp định cho tới quá trình thực thi. Bên cạnh đó, vẫn còn khoảng cách giữa cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp.
Đưa ra quan điểm của mình, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp SMEs Việt Nam Nguyễn Văn Thân nhấn mạnh, cơ hội mang lại từ EVFTA là rất lớn, nhưng thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia Hiệp định này cũng không hề nhỏ.
Theo ông Nguyễn Văn Thân, khi tham gia EVFTA, Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường của 27 quốc gia, dân số khoảng hơn 450 triệu người, thu nhập bình quân đầu người khoảng 36.000 USD. Đây là một thị trường rất khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm cao. Vì vậy, doanh nghiệp SMEs sẽ phải đối mặt với 7 thách thức như:
Thứ nhất, về các rào cản kỹ thuật. Doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với các vấn để về an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, quy tắc ứng xử, các quy định về bảo vệ môi trường, về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu vào EU, các quy định về tỷ lệ nội địa hóa sẽ gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp…
Thứ hai, sức ép cạnh tranh với hàng hóa của EU. Doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng với doanh nghiệp EU tại chính thị trường nội địa.
Ông Nguyễn Văn Thân cho rằng, hàng hóa của EU có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, sức cạnh tranh rất lớn nhờ được hưởng lợi từ việc miễn thuế của EVFTA. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu áp lực cạnh tranh rất lớn ngay trên “sân nhà”.
Thứ ba, ở góc độ các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo các chuyên gia thương mại, khi hàng rào thuế quan không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ các doanh nghiệp, các thị trường nhập khẩu thường có xu hướng áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ để bảo vệ sản xuất nội địa. Do vậy, EU cũng không phải là ngoại lệ, thậm chí EU còn là thị trường thường xuyên sử dụng các công cụ này và đây cũng là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ tư, cạnh tranh nguồn lao động. Khi nền kinh tế mở cửa theo các cam kết EVFTA, quá trình dịch chuyển sản xuất bắt đầu hình thành và làn sóng các nhà đầu tư từ EU sẽ tràn vào Việt Nam, tạo ra sự cạnh tranh về nguồn lao động trong các ngành. Theo đó, các ngành nghề sẽ thiếu nguồn lao động.
Thứ năm, doanh nghiệp Việt thiếu thông tin thị trường EU cũng như những thông tin về các quy định của EU về hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này.
Thứ sáu, doanh nghiệp Việt Nam chưa được chuẩn bị kiến thức, kỹ năng đầy đủ về xuất khẩu hàng hóa sang EU.
Thứ bảy, doanh nghiệp SMEs Việt Nam vẫn thiếu vốn cho sản xuất, kinh doanh.
Để giúp giải quyết những thách thức kể trên, Hiệp hội Doanh nghiệp SMEs kiến nghị, Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cải cách các thủ tục hành chính, cùng với đó là chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách. Bên cạnh đó, cần đề xuất và trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung, kịp thời thông qua một số đạo luật quan trọng như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật Lao động và một số luật về thuế để phù hợp với các quy định của EVFTA.
Tiếp đó, thông qua các phương tiện truyền thông, tăng cường triển khai tuyên truyền về nội dung của EVFTA và hướng dẫn thực hiện các nội dung cam kết, các quy định trong Hiệp định này. Ngoài ra, thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn về EVFTA, giúp doanh nghiệp nâng cao hiểu biết, nhận thức để thực thi hiệu quả Hiệp định này.
Ngoài ra, cần tăng nguồn lực tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp SMEs tiếp cận nguồn vốn vay với mức lãi suất cho vay ưu đãi để triển khai các dự án EVFTA.
Đưa ra ý kiến về các kiến nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp SMEs, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, phần lớn nội dung kiến nghị nêu trên đều đã được đề cập trong Kế hoạch hành động của Chính phủ để triển khai EVFTA. Kế hoạch này sẽ được ban hành ngay sau khi Quốc hội phê chuẩn Hiệp định.
Bộ trưởng Bộ Công Thương cũng khẳng định, doanh nghiệp SMEs luôn là trọng tâm trong các chương trình hành động của Chính phủ. Những chương trình như xúc tiến thương mại quốc gia, phát triển công nghiệp phụ trợ, tái cơ cấu ngành công nghiệp… sắp tới đều tập trung hướng vào doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nguyễn Linh