Thuế Thu nhập cá nhân: Góc nhìn từ Thế giới

0
2368
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được hơn 180 nước trên thế giới áp dụng, không chỉ xác định nghĩa vụ của mỗi công dân với quốc gia, mà còn thể hiện định hướng chính sách, mục tiêu phát triển của quốc gia đó.
Xu hướng mục tiêu của các chính sách mới về thuế TNCN là bên cạnh bảo đảm nguồn thu NSNN, còn thực hiện tái phân phối thu nhập, giảm các hành vi trốn, tránh thuế, tạo động lực để người dân tăng thu nhập, từ đó tăng sức tiêu thụ hàng hóa hoặc nâng cao tiết kiệm,  thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Từ thực tiễn xu hướng điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân trên thế giới

Dù không giống nhau, song trong những năm gần đây, ở nhiều nước trên thế giới ghi nhận một số xu hướng chung trong điều chỉnh chính sách thuế TNCN là: Tăng ngưỡng thu nhập tính thuế; Tăng giảm trừ gia cảnh; Áp dụng biểu thuế suất lũy tiến với thu nhập từ tiền lương, tiền công; Tăng thuế suất với thu nhập cao, giảm thuế suất với thu nhập thấp; Mở rộng đối tượng thu thuế (bao gồm cả thu nhập từ trúng thưởng…)…. nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo cũng như đảm bảo chức năng phân phối thu nhập của hệ thống thuế.

Hầu hết tất cả các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc những cá nhân có mức thu nhập tiền lương, tiền công cao hơn thì bị đánh thuế cao hơn, với khung thuế suất thuế TNCN lũy tiến, như: Tại Myanmar có mức giao động từ 1% đến 25%; tại Singapore từ 0% đến 22%; tại Philippin từ 5% đến 32%; tại Malaysia từ 1% đến 28%; tại Hàn Quốc từ 6% đến 40% và tại Mỹ từ 10% (thu nhập dưới 9.325 USD) đến 39,6% (thu nhập từ 418.400 USD trở lên)…

Hơn nữa, Singapore từ năm 2017, đã tăng mức thuế suất lũy tiến đối với phần thu nhập chịu thuế cao, từ 17% lên 18% đối với mức thu nhập chịu thuế trong khoảng 160.000-200.000S$ và tăng từ 20% lên 22% đối với mức thu nhập chịu thuế từ 320.000S$ trở lên. Áp dụng mức 19% đối với thu nhập từ 200.000 – 240.000S, 19,5% đối với thu nhập từ 240.000 – 280.000S$ và 20% đối với thu nhập từ 280.000 – 320.000S$ thay vì trước đây chỉ chịu một mức thuế suất là 18%). Myanmar từ năm 2015 tăng khung thuế suất thuế TNCN lũy tiến từ 2% – 25% lên 3% – 30%. Philippin tăng thuế suất thuế TNCN lên 35% đối với thu nhập từ 5 triệu Peso/năm trở lên, thay vì mức cũ 32% đối với thu nhập từ 6 triệu Peso/năm trở lên. Luxembour áp dụng khung thuế TNCN từ 8% đến 42%  thay cho mức cũ từ 8% đến 40%.

Đặc biệt, các nước đều nâng ngưỡng chịu thuế và mức chiết trừ gia cảnh: Từ năm 2017, Thái Lan nâng ngưỡng giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc là vợ, hoặc chồng, không có thu nhập từ 30.000 lên 60.000  Bạt (nếu vợ hoặc chồng có thu nhập chịu thuế thì khoản giảm trừ tối đa cho cả hai tăng từ 60.000 Bạt lên120.000 Bạt);  đối với người phụ thuộc là con nâng từ 15.000 Bạt /con (giới hạn số con là 03) lên 30.000 Bạt/con (không giới hạn số con), tuy nhiên hủy bỏ trợ cấp 2.000 Bạt cho mỗi con đến trường; đồng thời, nâng ngưỡng thu nhập chịu mức thuế cao nhất (35%) từ trên 4.000.000 Bạt lên trên 5.000.000 Bạt.

Campuchia cũng tăng ngưỡng thuế đối với thuế TNCN theo lộ trình: Từ năm 2017 tăng ngưỡng chịu thuế từ 800 nghìn riels lên 1 triệu riels và từ năm 2018 tăng lên 1,2 triệu riels.

Croatia cũng giảm ngưỡng từng bậc tính thuế TNCN, cụ thể, mức thuế suất cao nhất 36% sẽ được nâng ngưỡng tính thuế từ 210.000 HRK/năm lên 360.000 HRK/năm. Tiền thưởng không chịu thuế được tăng thêm 5.000 HRK/năm. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giảm xuống còn 3% với kỳ vọng giảm thiểu việc người dân không đăng ký chuyển nhượng tài sản.

Luật Thuế TNCN sửa đổi của Trung Quốc có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 đã hợp nhất bốn loại thu nhập lao động (bao gồm tiền lương và tiền công, tiền công cho các dịch vụ cá nhân, thù lao của tác giả và tiền bản quyền), thành một loại thu nhập tính thuế; đồng thời tăng khấu trừ thuế tiêu chuẩn cho thu nhập hợp nhất từ 42.000 RMB/năm lên 60.000 RMB/năm.

Hoa Kỳ áp dụng Đạo luật “Cắt giảm thuế và việc làm” nhằm giảm nghĩa vụ thuế đối với tầng lớp trung lưu, hướng tới mục tiêu giảm mức thuế chung. Theo đó, thuế TNCN được cải cải theo hai hướng, vừa tăng ngưỡng thu nhập chịu thuế ở mỗi khung thuế suất vừa tăng mức thuế suất của mỗi bậc. Cụ thể, thuế suất thuế TNCN được điều chỉnh giảm từ 15% xuống 12%; 25% xuống 22%; 28% xuống 24%; 33% xuống 22%; 39,6% xuống 37%; giữ nguyên mức thuế thấp nhất là 10%. Các ngưỡng tính thuế cũng tăng lên, từ năm 2018 tăng mức giảm trừ gia cảnh, theo đó: Đối với người độc thân và người đã kết hôn nhưng khai thuế riêng, mức giảm trừ là 12.000 USD, tăng 5.650 USD; đối với cặp kết hôn khai thuế chung, mức giảm trừ là 24.000 USD, tăng 11.300 USD; đối với chủ hộ, mức giảm trừ là 18.000 USD; tăng mức giảm trừ cho trẻ em từ 1.000 USD lên 2.000 USD.

Tại Anh, từ năm tài chính 2016 – 2017, chính sách thuế TNCN thay đổi theo hướng có lợi cho người lao động, theo đó: (i) Tăng mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân từ khoảng 10.000 bảng lên 10.800 Bảng và 11.500 bảng cho năm 2017 – 2018; (ii) Mức thu nhập chịu thuế thuế suất cơ bản tăng từ 31.785 bảng (năm 2015 – 2016) lên 31.900 Bảng trong năm 2016 – 2017 và 32.300 Bảng trong năm 2017 – 2018.

Nhìn chung, xu hướng mục tiêu của các chính sách mới về thuế TNCN là bên cạnh bảo đảm nguồn thu NSNN, còn thực hiện tái phân phối thu nhập, giảm các hành vi trốn, tránh thuế, tạo động lực để người dân tăng thu nhập, từ đó tăng sức tiêu thụ hàng hóa hoặc nâng cao tiết kiệm,  thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đến thực tiễn điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

Thời gian gần đây, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách thuế quan trọng: Bổ sung các quy định mới về thuế giá trị gia tăng (GTGT) phù hợp với các hoạt động kinh tế mới phát sinh; Giảm thuế suất thuế TNDN từ 25% xuống 22% từ năm 2014 và xuống 20% từ năm 2016 (riêng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa – DNNVV áp dụng từ ngày 01/7/2013); Tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân; Nâng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với những mặt hàng có hại cho sức khỏe cần hạn chế tiêu dùng như thuốc lá, rượu, bia, sửa đổi giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu; Áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% đối với nhà ở xã hội; gia hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, giảm thuế TNDN đối với DNVVV; giảm thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN cho các tổ chức, cá nhân, hộ kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho thuê đối với công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh; chăm sóc trông giữ trẻ; cung ứng suất ăn ca có tham gia ổn định an sinh xã hội; chuyển nhiều loại phí sang thực hiện theo cơ chế giá (Luật Phí và Lệ phí năm 2015). Đồng thời, các luật thuế như Luật Ngân sách nhà nước (NSNN), Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 (thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008)…được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo hướng ngày càng công khai, minh bạch, từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế, áp dụng thống nhất đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, đa dạng sắc thuế, bao quát hầu hết cơ sở thuế…góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, minh bạch các hoạt động kinh tế, chống gian lận; thúc đẩy hạch toán kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng, khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế, sử dụng hiệu quả tài sản công và bảo đảm ổn định nguồn thu NSNN, giảm chi phí tuân thủ thuế cho xã hội…

Bộ Tài chính cũng vừa đề xuất Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5 tới quyết định chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ từ ngày 1-7-2020. Theo đó sẽ áp dụng thuế suất 15-17% tùy thuộc vào quy mô doanh thu và số lượng lao động của doanh nghiệp, đồng thời cho phép miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm liên tục kể từ khi có thu nhập chịu thuế đối với doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ chuyển đổi từ hộ kinh doanh lên. Nếu chính sách ưu đãi này được Quốc hội thông qua, từ tháng 7-2020 sẽ có khoảng 700 ngàn doanh nghiệp, tương đương 93% tổng số doanh nghiệp trong cả nước sẽ được giảm nghĩa vụ nộp NSNN khoảng 7,8 ngàn tyỉ đồng trong năm 2020. Bộ Tài chính cũng đang phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát để cắt giảm nhiều loại phí, lệ phí cho doanh nghiệp và người dân như miễn lệ phí môn bài đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân thành lập mới trong năm đầu thành lập.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, một số quy định pháp luật về thuế chạm điều chỉnh phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển (như chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hoặc phát triển thương mại điện tử trong nền kinh tế số). Hệ thống thuế còn phức tạp, lồng ghép quá nhiều chính sách, nhiều ưu đãi miễn giảm, trong khi tác động thúc đẩy phát triển sản xuất – kinh doanh còn hạn chế, nhiều trường hợp còn tạo ra gánh nặng phí cao cho người dân, doanh nghiệp. Kỷ luật, kỷ cương trong quản lý thuế còn chưa nghiêm. Công tác thanh tra, kiểm tra, thông tin báo cáo về thuế còn nhiều bất cập; chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh. Công tác phân tích, dự báo thu NSNN còn hạn chế…

Theo Bộ Tài chính, qua thực tiễn triển khai thực hiện Luật Thuế TNCN thời gian qua cho thấy, một số quy định tại Luật thuế TNCN hiện hành còn phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế và khó khăn cho công tác quản lý thuế. Chưa có chính sách thuế phù hợp nhằm thu hút cá nhân là nhân lực công nghệ cao; chính sách thuế đối với cá nhân có thu nhập từ trúng thưởng…Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNCN theo hướng mở rộng cơ sở thuế và xác định rõ thu nhập chịu thuế; sửa đổi, bổ sung phương pháp tính thuế đối với từng khoản thu nhập theo hướng đơn giản, phù hợp với thông lệ quốc tế để nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế và tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế. Đồng thời, điều chỉnh số lượng thuế suất phù hợp với thu nhập chịu thuế và đối tượng nộp thuế; cơ bản thống nhất mức thuế suất đối với thu nhập cùng loại hoạt động hoặc hoạt động tương tự đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế giữa thể nhân và pháp nhân (doanh nghiệp); điều chỉnh mức thuế suất hợp lý nhằm động viên, khuyến khích cá nhân làm giàu hợp pháp.

Theo biểu thuế lũy tiến từng phần quy định tại luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện hành, thuế suất đối với người làm công ăn lương gồm 7 bậc, từ 5 % đến 35% (từ 80 triệu đồng/tháng trở lên), sau khi trừ đi phần chiết giảm gia cảnh 9 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và 3,6 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc.

Theo Khoản 4 Điều 1 Luật Thuế thu nhập cá nhân số 26/2012/QH12: “Trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản này phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo”.

Trên thực tế, chỉ số giá tiêu dùng bình quân, kể từ khi luật có hiệu lực 1-7-2013 đến cuối tháng 12-2019 đã tăng 23,2%. Bởi vậy, Bộ Tài chính vừa đề xuất tăng mức giảm trừ gia cảnh cho TNCN lên 11 triệu đồng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng cho người phụ thuộc để áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2020.

Nếu đề xuất điều chỉnh này được chấp nhận, sẽ có khoảng 6,8 triệu người được hưởng lợi, trong đó có khoảng 1 triệu người sẽ không phát sinh thuế TNCN phải nộp. Tổng số tiền người lao động được giữ lại thông qua việc điều chỉnh chính sách thuế thu nhập cá nhân trong năm 2020 khoảng 10,3 ngàn tỉ đồng.

Việc điều chỉnh như trên là cần thiết do phù hợp với xu hướng, thông lệ thế giới và với quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân; góp phần bù lại mức trượt giá; cải thiện mức sống của người dân, kích thích tăng mức chi tiêu hộ gia đình, tăng tiêu dùng của xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là trong bối cảnh dịch NCOVID-19 đang có những tác động bất lợi đến nhiều mặt của nền kinh tế. Tăng mức giảm trừ gia cảnh, thu từ thuế TNCN nếu giảm cũng chỉ giảm trong ngắn hạn; còn về dài hạn, việc giảm nguồn thu đó sẽ nằm trong túi người dân khiến họ tăng chi tiêu. Chi tiêu tạo ra tăng trưởng GDP, mang lại lợi ích có thể gấp nhiều lần số nguồn thu sụt giảm.  Hơn nữa, việc nâng mức giảm trừ gia cảnh không làm hụt thu NSNN như giả định, vì thực tế cho thấy, sau khi nâng mức chiết trừ gia cảnh từ năm 2013, số thu từ sắc thuế này tăng liên tục năm sau so với năm trước: năm 2017 tăng 120% so với năm 2016; năm 2018 tăng 124% so với năm 2017; năm 2019 tăng 108% so với năm 2018. Năm 2016 đạt 49.152 tỉ đồng và năm 2019 ước đạt 79.219 tỉ đồng, tăng hơn 61%. Thậm chí, tổng số người thuộc diện nộp thuế TNCN từ hơn 4,38 triệu người vào năm 2016 đến hết 2019 là 6,88 triệu người. Nói cách khác Thuế TNCN đang trở thành một trong những nguồn thu quan trọng, tăng mạnh từ đóng góp 1,85% (năm 2006), lên 5,92% (năm 2016) và lên mức 7,19% (năm 2018) trong tổng thu NSNN, vượt xa nguồn thu từ dầu khí đang giảm dần…

Ngoài ra, có nhiều ý kiến cho rằng, cơ quan chức năng có thể xem xét nâng mức thuế TNCN cao nhất lên so với hiện hành để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh và bù lại phần hụt thu do tăng mức giảm trừ gia cảnh, như cách mà nhiều nước đang làm hiện nay.

Cũng cần thấy rằng, liệu mức giảm trừ gia cảnh mới đã thỏa đáng trên thực tế và có phù hợp với luật định chưa, liệu có sớm lạc hậu trong thời gian tới…?! Bởi theo nguyên tắc mà BTC xác định mức giảm trừ 9 triệu đồng/tháng tương đương 2,5 lần mức thu nhập bình quân đầu người năm 2014, thì cần  điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh mới phải là khoảng 15-16 triệu đồng/tháng để cân bằng mức thu nhập bình quân đầu người mới của Việt Nam (đã đạt gần 2.800 USD/năm, tương đương khoảng 6,4 triệu đồng/tháng từ cuối năm 2019).

Theo dự kiến, phương án điều chỉnh được Bộ Tài chính soạn thảo sẽ áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2020. Do vậy trường hợp đã tạm nộp thuế theo mức GTGC cũ sẽ được xác định số thuế TNCN phải nộp mức điều chỉnh mới khi quyết toán thuế TNCN năm 2020 (thực hiện trong quý 1/2021).

Đặc biệt, người dân sốt ruột chờ đợi và mong rằng cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện và nâng mức điều chỉnh giảm trừ gia cảnh, vì để chậm ngày nào là người dân thiệt ngày đó, cả theo Luật, cũng như trên thực tế gia tăng nhanh áp lực lạm phát thời gian qua và nhất là tới đây, gắn với hệ lụy tiêu cực chung của đại dịch Covid-19.

TS. Nguyễn Minh Phong

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here