Điện gió ngoài khơi – nguồn điện xanh thế hệ mới có lịch sử phát triển khoảng 30 năm gần đây tại các nước Đan Mạch, Anh, Đức, Trung Quốc, Mỹ. Sau Hội nghị Thượng đỉnh Cop 26 năm 2021 (tại Anh) trên thế giới đã hình thành liên minh các quốc gia điện gió ngoài khơi (GOWA). Xu hướng phát triển điện gió ngoài khơi trên thế giới đang gia tăng mạnh, hiện tại là 57 GW và có thể đạt 500 GW lắp đặt vào năm 2040, 1.000 GW vào năm 2050.
Một số kinh nghiệm của các nước có ngành điện gió ngoài khơi phát triển:
Thứ nhất,khuôn khổ pháp lý ổn định, quy hoạch, chiến lược, định hướng phát triển rõ ràng là điều kiện tiên quyết để phát triển thành công điện gió ngoài khơi
Nhiều nền kinh tế lớn đều ban hành chiến lược quốc gia và lộ trình triển khai cụ thể cho từng giai đoạn với các mục tiêu rõ ràng về sản lượng, xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển trong chuỗi giá trị và bảo đảm cơ chế giá ổn định.Trung Quốc ban hành Quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo 5 năm (2021 – 2025) với các mục tiêu cụ thể về điện gió ngoài khơi; các địa phương duyên hải công bố quy hoạch phát triển điện gió trên biển tạo định hướng rõ ràng trong thu hút đầu tư. EU đưa ra Chiến lược về điện gió ngoài khơi năm 2020 với mục tiêu củng cố vị trí tiên phong, xây dựng quy hoạch không gian biển, quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi; công bố chương trình RePowerEU năm 2022 đặt mục tiêu sản lượng điện gió ngoài khơi đạt 90GW vào năm 2030 và 300GW vào năm 2050. Tây Ban Nha phê duyệt “Lộ trình phát triển năng lượng gió ngoài khơi và năng lượng biển” (12/2021). Hàn Quốc công bố “Thoả thuận Xanh” (7/2020) với tổng đầu tư 7,7 tỷ USD đến năm 2025 để phát triển điện gió, mặt trời và hydro, trong đó đặt mục tiêu 12GW công suất điện gió ngoài khơi vào năm 2030.
Việc triển khai chiến lược phát triển điện gió ngoài khơi được đẩy nhanh bằng nhiều cơ chế đột phá. Rumani thông qua Luật điện gió ngoài khơi (5/2024), trở thành quốc gia đầu tiên ở Biển Đen có khuôn khổ pháp lý chuyên biệt cho năng lượng điện gió ngoài khơi; đẩy nhanh xây dựng lộ trình triển khai các dự án điện gió ngoài khơi. Đức xây dựng Luật phát triển năng lượng tái tạo và Luật xây dựng dự án điện gió ngoài khơi (WindSeeG). Anh thành lập lực lượng đặc nhiệm tăng tốc điện gió ngoài khơi trong khuôn khổ Chiến lược An ninh năng lượng (BESS) tập trung vào cải cách quy hoạch, tăng cường hiệu quả phê duyệt đầu tư, cắt giảm thời gian thông qua các dự án mới từ 04 năm xuống còn 01 năm. Nhật Bản công bố thành lập các “khu vực ưu đãi” nhằm tạo cơ chế đột phá phát triển các cơ sở sản xuất điện năng lượng tái tạo trên biển, đặc biệt là các dự án điện gió ngoài khơi trong vùng lãnh hải.
Thứ hai, các cơ chế hỗ trợ tài chính có vai trò quan trọng thúc đẩy ngành ĐGNK phát triển, nhất là trong giai đoạn ban đầu
Với đặc thù chi phí đầu tư lớn, vai trò hỗ trợ của nhà nước được triển khai thông qua nhiều hình thức như: cấp vốn trực tiếp cho các dự án điện gió ngoài khơi bằng ngân sách quốc gia hoặc các quỹ phát triển năng lượng tái tạo; phát hành các chứng chỉ xanh để huy động vốn; triển khai một số công cụ tài chính như ưu đãi thuế, trợ cấp giá bán buôn… Trung Quốc hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước triển khai các dự án điện gió ngoài khơi quan trọng để phát triển thành những doanh nghiệp lớn toàn cầu; triển khai hỗ trợ giá điện gió ngoài khơi thông qua trợ cấp quốc gia và địa phương, đồng thời tham gia điều tiết giá điện gió ngoài khơi nhằm ổn định thị trường. Đài Loan dành 3 tỷ USD để hỗ trợ ngành sản xuất các thiết bị điện gió ngoài khơi, 14,5 tỷ USD cho hoạt động nghiên cứu và phát triển; thúc đẩy “Cơ chế bảo đảm tài chính quốc gia” để cung cấp tín dụng, khuyến khích các tổ chức tài chính mở rộng tín dụng và đầu tư vào ngành năng lượng xanh. EU dành 40 tỷ euro từ Quỹ Đổi mới sáng tạo đầu tư cho các dự án điện gió giai đoạn 2020 – 2030. Ngân hàng đầu tư châu Âu (EIB) dành gói vay ưu đãi 150 tỷ euro trong 5 năm. Anh đầu tư 250 triệu bảng Anh để xây dựng chuỗi cung ứng, thiết lập Đối tác tăng trưởng gió ngoài khơi (OWGP) để tăng cao năng suất và tăng khả năng cạnh tranh; đưa ra trợ cấp vốn lên tới 100% với nhà máy và thiết bị cho các dự án điện gió ngoài khơi; thành lập Trung tâm đổi mới điện gió ngoài khơi.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu trong ngành điện gió ngoài khơi
Sự phát triển của ngành điện gió ngoài khơi đòi hỏi đầu tư lớn về hạ tầng và công nghệ. Do đó, các nước đều có nhu cầu đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực tài chính, công nghệ và kỹ thuật từ các đối tác.
Một số khuôn khổ hợp tác toàn cầu được thành lập nhằm thúc đẩy lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Hội đồng năng lượng gió toàn cầu (GWEC)là tổ chức quốc tế đại diện cho ngành năng lượng gió được thành lập năm 2005, gồm hơn 1500 doanh nghiệp và tổ chức thành viên ở hơn 80 quốc gia trên thế giới. Liên minh điện gió ngoài khơi toàn cầu (GOWA)được thành lập nhân Hội nghị COP 27 (2022) bởi Chính phủ Đan Mạch, Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) và GWEC là một sáng kiến hợp tác nhiều bên. GOWA thúc đẩy các nỗ lực ngoại giao nhằm tạo ra các khung chính sách và chuỗi giá trị điện gió ngoài khơi hiệu quả.
Một số nền kinh tế lớn, có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi như Trung Quốc, EU, UAE… tăng cường thúc đẩy các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương. Uỷ ban châu Âu ban hành Hướng dẫn về khuôn khổ đầu tư đối với các dự án điện gió ngoài khơi giữa các nước thành viên, hỗ trợ các nước đàm phán thoả thuận chia sẻ chi phí nhằm đạt được các mục tiêu của EU về điện gió ngoài khơi. UAE và Trung Quốc hợp tác phát triểncác dự án điện gió quy mô lớn tại UAE do tập đoàn Masdar làm chủ đầu tư, hợp tác với 02 tập đoàn GoldWind International (hỗ trợ công nghệ tua-bin) và Power China (thực hiện việc xây dựng). Tây Ban Nha và UAE công bố thỏa thuận hợp tác chiến lược trị giá 15 tỷ euro để đánh giá sự phát triển chung của các dự án điện gió ngoài khơi và hydrogen xanh tại các thị trường trọng điểm bao gồm Đức, Anh và Mỹ.Nauy và Đức kết nối thị trường điện hai nước bằng đường cáp Nordlink, theo đó Đức có thể xuất khẩu các nguồn điện gió dư thừa công suất. Các nước đang phát triển tích cực tham gia vào các sáng kiến quốc tế để phát triển công nghệ và thiết lập chuỗi cung ứng cho ngành điện gió ngoài khơi. Bắc Âuphát triển hạ tầng lưới điện chung để kết nối các dự án điện gió ngoài khơi để tối ưu hóa sản xuất.
Thứ tư, hệ thống cơ sở hạ tầng bổ trợ được ưu tiên xây dựng đồng bộ trong phát triển ngành điện gió ngoài khơi
Hàn Quốc chú trọng đầu tư nâng cấp và mở rộng hạ tầng lưới điện nhằm hỗ trợ kết nối các dự án điện gió ngoài khơi vào hệ thống điện quốc gia. Đài Loan bố trí ngân sách 300 triệu USD đầu tư xây dựng hạ tầng cần thiết cho điện gió ngoài khơi;tích cực xây dựng các trạm lắp ráp tua-bin gió, trạm vận hành và bảo trì, củng cố lưới điện và cơ sở hạ tầng liên quan để tạo nền tảng cơ sở vật chất đồng bộ cho phát triển điện gió ngoài khơi. Đan Mạch tiến hành xây dựng “đảo năng lượng” đầu tiên trên thế giới theo hình thức công tư, thu thập điện từ các trang trại điện gió ngoài khơi và phân phối vào lưới điện. Đức phát triển cơ sở hạ tầng truyền tải ra nước ngoài theo cụm với các nước láng giềng.
Thứ năm, tăng cường nội địa hoá chuỗi cung ứng, nâng cao năng lực sản xuất trong nước
Trung Quốc nghiên cứusản xuất tua-bin gió ngoài khơi lớn nhất thế giới “CSSC Haizhuang” có công suất 18 MW và khả năng hoạt động ở các khu vực bão lớn, gió mạnh trên đại dương; đưa vào vận hành dự án tua-bin gió ngoài khơi nửa chìm nửa nổi đầu tiên trên thế giới hoạt động ở vùng biển có độ sâu hơn 100m và cách bờ hơn 100km. Chính phủban hành quy định doanh nghiệp đầu tư phải là doanh nghiệp Trung Quốc hoặc liên doanh giữa Trung Quốc và nước ngoài trong đó Trung Quốc chiếm trên 50% cổ phần vốn, 70% thiết bị dùng để vận hành điện gió phải được sản xuất tại Trung Quốc. Hàn Quốc áp dụng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh thị trường trong nước thông qua áp dụng các tiêu chí, quy trình đấu thấu tập trung vào các yếu tố về an ninh kinh tế, đóng góp vào chuỗi giá trị trong nước (chuyển giao công nghệ, việc làm chất lượng cao, tác động lan toả,…). Anh khuyến khích các công ty trong nước đẩy mạnh đầu tư điện gió ngoài khơi nhờ các chương trình hỗ trợ tài chính và tín dụng ưu đãi, tăng cường xây dựng các nhà máy sản xuất thiết bị và linh kiện điện gió ngay tại Anh để xây dựng năng lực sản xuất.
Một sốbài học kinh nghiệm trong phát triển điện gió ngoài khơi:
(i) Khuôn khổ pháp lý, thể chế chính sách rõ ràng trong phát triển điện gió ngoài khơi là hết sức cần thiết để bảo đảm việc thu hút thành công các nhà đầu tư nước ngoài do vốn đầu tư lớn và thời gian hoàn thành dự án dài.
(ii) Tính đặc thù của điện gió ngoài khơi thể hiện ngay ở khâu khảo sát dự án. Với một dự án điện gió ngoài khơi công suất 1000 MW, tổng vốn đầu tư khoảng 2,5 tỷ USD, trong đó chi phí khảo sát dự án thường chiếm khoảng 4-5%, tương đương khoảng 120 triệu USD. Việc bảo đảm được tính kết nối giữa giai đoạn khảo sát và giai đoạn triển khai dự án là rất quan trọng đối với các nhà đầu tư.
(iii) Vai trò hỗ trợ của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng. Trong đó, hỗ trợ tài chính trong giai đoạn đầu phát triển ngành điện gió ngoài khơi là chính sách chung được nhiều nước triển khai.
(iv) Phát triển điện gió ngoài khơi cần có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện, đặt trong chiến lược chung về năng lượng tái tạo và có lộ trình triển khai cụ thể theo từng giai đoạn.
(v) Từ góc độ doanh nghiệp, sự phát triển của điện gió ngoài khơi cho thấy nhiều doanh nghiệp dầu khí đã mở rộng hoặc chuyển đổi thành công sang lĩnh vực mới. Nhiều doanh nghiệp hàng đầu về điện gió ngoài khơi hiện nay có xuất phát điểm là các doanh nghiệp dầu khí.