Khủng hoảng dịch bệnh COVID-19 góp phần gây ra tình trạng thiếu năng lượng và mất điện khi tất cả các dự án khí đốt có vốn đầu tư nước ngoài đều bị đình trệ vô thời hạn.
Về vấn đề này, trang tin Asiatimes cho rằng, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng và điện do tác động của dịch bệnh COVID-19. Các công ty dầu khí nước ngoài, bao gồm một số tập đoàn lớn của Mỹ, đã lên kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Việt Nam, bao gồm một số dự án điện chạy bằng khí đốt ở các tỉnh miền Nam. Tuy nhiên, các lệnh cấm đi lại và dự báo kinh tế ngày càng ảm đạm khiến các giám đốc điều hành, kỹ sư và nhà lập quy hoạch của các công ty này đang không vào được Việt Nam, quốc gia bị ảnh hưởng nhẹ bởi COVID-19.
Mới tháng trước, các công ty năng lượng đa quốc gia lớn đã đến gặp các nhà hoạch định chính sách Hà Nội và chính quyền tỉnh để ký kết các thỏa thuận cung cấp LNG hoặc đề xuất đầu tư vào các nhà máy điện chạy bằng khí đốt.
Nguồn tin từ một công ty tư vấn năng lượng hoạt động tại Việt Nam cho biết các công ty năng lượng nước ngoài, nhiều công ty đã ký kết MoU với nhiều chính quyền tỉnh Việt Nam, sẽ có thể không vào Việt Nam trong ít nhất 6 tháng hay thậm chí một năm, cho đến khi đại dịch chấm dứt hoàn toàn.
Doanh Châu, chủ tịch Tập đoàn Gas Việt Nam, cho biết tất cả các dự án năng lượng của Việt Nam đang phải dừng lại vì đại dịch COVID-19 cho đến khi có thông báo mới từ chính phủ. Tuy nhiên, ông không nói có dự án nào đã được đề xuất hoặc ký kết bị hủy bỏ hay không.
Có thể vấn đề đối với Việt Nam là ngay cả khi đại dịch kết thúc, sự vắng mặt kéo dài của các công ty năng lượng nước ngoài sẽ làm chậm thời gian xây dựng các cảng tiếp nhận LNG và cơ sở hạ tầng năng lượng mới. Theo các nhà phân tích năng lượng, sự chậm trễ này sẽ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng điện năng hiện đã gây ra tình trạng quá tải và mất điện ở nhiều nơi trên toàn quốc.
Sáu tháng trước khi dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, Bộ Công Thương Việt Nam thông báo Việt Nam có nguy cơ thiếu điện nghiêm trọng bắt đầu từ năm 2021 do nhu cầu điện vượt xa nguồn cung cấp điện mới. Bộ Công Thương Việt Nam cho biết nhu cầu điện của Việt Nam dự kiến sẽ cao hơn mức cung 6,6 tỷ kilowatt/giờ (KW/h) vào năm 2021, tăng lên 15 tỷ KW/h vào năm 2023, tương đương với khoảng 5% nhu cầu điện dự báo.
Hiện chưa rõ các dự báo trên có cần phải được điều chỉnh hay không và điều chỉnh như thế nào trong trường hợp tăng trưởng kinh tế chậm do COVID-19 gây ra.
Hãng tin Reuters cho biết, việc thiếu cơ sở hạ tầng năng lượng có thể làm giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á và ảnh hưởng vị thế là một trong những quốc gia được hưởng lợi nhất trên thế giới từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Truyền thông nhà nước Việt Nam cho biết khoảng 47 trong số 62 dự án sản xuất điện từ 200 megawatt (MW) trở lên ở Việt Nam có khả năng bị trì hoãn, một số có thể chậm khởi công ít nhất 2 năm so với kế hoạch xây dựng dự kiến.
Việt Nam ngày càng trông đợi vào nguồn LNG để bù đắp cho các nguồn dự trữ ngoài khơi đang giảm dần và đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng khi nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tăng trưởng với tốc độ trung bình hơn 6% trong hơn một thập kỷ qua.
Hơn nữa, các nhà máy điện sử dụng LNG cần một mạng lưới các cảng tiếp nhận và tái phục hồi khí đốt. Việt Nam đã có kế hoạch xây dựng ít nhất 6 cảng tiếp nhận LNG lớn, trong đó có một cảng đang được xây dựng ở phía Nam tỉnh Vũng Tàu, và nhiều dự án điện chạy bằng khí đốt với quy mô khác nhau.
Lê Công Khánh, một kỹ sư và là cố vấn năng lượng, làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, nói nếu các công ty nước ngoài rút lại các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng khí đốt của Việt Nam đã được lên kế hoạch vì lý do đại dịch COVID-19, các dự án LNG liên quan sẽ có khả năng bị trì hoãn ít nhất một năm: “Việt Nam sẽ vẫn cần nhập khẩu khí đốt hoặc than đá và cũng cần có các nhà đầu tư xây dựng các nhà máy điện cần thiết để bù đắp sự thiếu hụt điện sắp tới, bởi vì chính phủ Việt Nam không có tiền để tài trợ cho các dự án này. Các ảnh hưởng và sự chậm trễ gây ra bởi COVID-19 sẽ làm tình hình trở nên nghiêm trọng hơn”.
Ông Lê cho rằng “năm 2020 có thể là một năm rất khó khăn” và dự đoán tác động kinh tế của đại dịch có thể mất 2 đến 3 năm để khắc phục và ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với khu vực sản xuất điện của đất nước.
Tuy nhiên, mới đây, bất chấp khả năng suy thoái toàn cầu do đại dịch COVID-19 gây ra, Tập đoàn Năng lượng Super (Super Energy Corporation) có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Thái Lan (SET) đã thông báo sẽ phân bổ 457 triệu USD để mua tài sản ở Việt Nam trong năm nay.
Tờ Bangkok Post dẫn lời Chủ tịch kiêm quyền Giám đốc điều hành của Super, ông Jormsup Lochaya, nói rằng tập đoàn này đã quyết định mua lại 4 dự án điện Mặt trời ở Việt Nam với tổng công suất 750MW sau khi ban lãnh đạo đồng ý thực hiện việc nói trên thông qua công ty mà họ sở hữu là Super Solar Thailand.
Bốn dự án điện Mặt trời này nằm ở tỉnh Bình Phước. Theo thỏa thuận với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), giá hòa lưới điện đặc biệt là 7,09 USD/kw/h trong hơn 20 năm. Tất cả 4 dự án hiện đang được thi công và dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động vào tháng 12 với lãi suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of Return – IRR) ước tính khoảng 15-17%. Ông Jormsup cho biết những tài sản mà Super mua là một trong những bước lớn nhất trong kế hoạch mở rộng kinh doanh của tập đoàn, đồng thời tỏ ý tin tưởng rằng sự giảm tốc của nền kinh tế sẽ chấm dứt.
Các thỏa thuận mua lại nói trên là một phần trong kế hoạch chi tiêu 4 năm lên tới khoảng 40 tỷ baht (1,22 tỷ USD) dành cho những khoản đầu tư và mua sắm tài sản mới. Doanh thu ước tính của Super từ 4 dự án điện Mặt Trời tổng cộng khoảng 2,16 tỷ baht (66,13 triệu USD) mỗi năm, bắt đầu từ năm tới.
Super hiện cũng đang tìm kiếm các dự án năng lượng tái tạo khác ở châu Á, từ Indonesia tới Nhật Bản. Công ty gần đây báo cáo với các cổ đông thông qua truyền hình trực tiếp từ SET rằng họ sẽ có 125 dự án điện Mặt Trời, chủ yếu ở Thái Lan và Việt Nam, và một dự án sản xuất năng lượng từ rác thải ở Thái Lan vào cuối năm nay.
Thu Hằng