Thuật ngữ liên quan đến kinh tế biển hay kinh tế đại dương được sử dụng khác nhau trên khắp thế giới. Các thuật ngữ thường được sử dụng bao gồm: ngành đại dương (ocean industry), nền kinh tế biển (marine economy), ngành biển (marine industry), hoạt động biển (marine activity), nền kinh tế hàng hải (maritime economy) và lĩnh vực hàng hải (maritime sector).
Theo Ủy ban Châu Âu (EC), “Kinh tế biển bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế ngành và liên ngành liên quan đến đại dương, biển và bờ biển. Điều này bao gồm các hoạt động hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp gần nhất cần thiết cho hoạt động của các ngành kinh tế này, có thể được đặt ở bất cứ đâu, kể cả ở các quốc gia không giáp biển.”
Tổ chức OECD (2016) định nghĩa kinh tế đại dương là tổng các hoạt động kinh tế của các ngành công nghiệp dựa trên đại dương, cùng với tài sản, hàng hóa và dịch vụ do các hệ sinh thái biển cung cấp và thừa nhận sự phụ thuộc lẫn nhau của hai trụ cột đó. Định nghĩa này của OECD được phát triển chủ yếu nhằm mục đích đo lường thống kê kinh tế biển, nó bao gồm tất cả các tài sản tự nhiên và dịch vụ hệ sinh thái mà đại dương cung cấp như môi trường sống và hấp thụ CO2.
Dù có những cách tiếp cận khác nhau nhưng các định nghĩa về kinh tế biển có một đặc điểm chung có thể được nhận diện, đó là chúng được chia thành 2 lĩnh vực chính là các ngành kinh tế dựa trên biển và hệ sinh thái biển. Trong đó, các ngành kinh tế dựa trên biển có thể được chia thành dòng chảy thị trường và dịch vụ, và trữ lượng vốn vật chất của các ngành kinh tế. Các hệ sinh thái biển đại diện cho tài sản vốn tự nhiên và các dòng chảy và dịch vụ phi thị trường. Trong nhiều trường hợp, các hệ sinh thái biển cung cấp đầu vào trung gian cho các ngành kinh tế dựa trên biển, ngược lại hoạt động của các ngành kinh tế luôn có tác động trở lại đối với hệ sinh thái biển.
Ở Việt Nam, từ giữa thập niên 1990, trong Đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và các hải đảo Việt Nam đến năm 2010” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì (1995 – 1996) có định nghĩa: “Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển, trong đó biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch biển,… còn toàn bộ các hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển lại nằm trên dải đất liền ven biển.” Như vậy có thể thấy dù có cách diễn đạt và tiếp cận khác nhau khác nhau nhưng khái niệm kinh tế biển của Việt Nam với các tổ chức nhìn chung đều có cùng nội hàm, đó là các hoạt động kinh tế với các ngành công nghiệp dựa trên việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên biển theo các cách thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế và đời sống người dân.
Hệ thống chuẩn mực thống kê quốc gia hiện hành của Việt Nam không có tiêu chuẩn phân loại các ngành kinh tế biển. Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có nêu một số ngành kinh tế biển ưu tiên phát triển đến năm 2030 theo thứ tự: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Việc phân loại các ngành kinh tế biển theo tinh thần Nghị quyết 36 chủ yếu nhằm mục đích đưa ra quan điểm và định hướng phát triển chung, đòi hỏi Chính phủ phải cụ thể hóa bằng chương trình hành động cụ thể.
Vai trò quan trọng của kinh tế biển
Biển và đại dương cung cấp một nửa lượng oxy trong bầu khí quyển của Trái đất, hấp thụ một nửa lượng khí thải carbon toàn cầu, điều hòa khí hậu, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và xác định các kiểu thời tiết, ổn định bờ biển, nhiệt độ và chu kỳ nước. Biển và đại dương chiếm 80% đa dạng sinh học của hành tinh (Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2020) và đóng góp chính cho an ninh lương thực và sinh kế. Trên thực tế, khoảng ba tỷ người dựa vào đa dạng sinh học biển và ven biển để kiếm sống. Biển và đại dương cũng là trung tâm của bản sắc, văn hóa và sinh kế của hàng tỷ người. Biển và đại dương còn cung cấp môi trường sống cho các loài sinh vật biển, bao gồm nhiều loài mà con người phụ thuộc vào thức ăn và chu trình dinh dưỡng. Hơn 80% thương mại toàn cầu được thực hiện trên biển (UNCTAD, 2019). Trong những năm qua, đại dương đã hỗ trợ nhiều hoạt động kinh tế và đổi mới liên tục trong các ngành truyền thống, các ngành phát triển nhanh và nhiều ngành mới nổi khác (OECD, 2019). Trước đại dịch Covid-19, ước tính của OECD (2016) cho thấy giá trị gia tăng do các ngành công nghiệp dựa trên biển và đại dương tạo ra trên toàn cầu có thể tăng gấp đôi từ 1,5 nghìn tỉ USD năm 2010 lên 3 nghìn tỉ USD vào năm 2030.
Hiện nay, bối cảnh của các nền kinh tế dựa vào biển đã có sự thay đổi sâu sắc so với nhiều thập niên qua. Trọng tâm của các chiến lược kinh tế biển đã chuyển từ các lĩnh vực truyền thống như vận tải, du lịch biển hay đánh bắt cá sang các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như nuôi trồng thủy sản ngoài khơi, dược lý biển, công nghệ sinh học biển, năng lượng tái tạo, tàu carbon thấp và công nghệ hàng hải, giám sát hàng hải, dịch vụ môi trường và dịch vụ nghiên cứu và phát triển biển. Sự chuyển dịch này xuất phát từ bối cảnh biến đổi khí hậu, cách mạng công nghệ, sự gia tăng dân số toàn cầu, v.v…
Những thách thức nổi lên đối với kinh tế biển
Mặc dù kinh tế biển có vai trò và lợi ích vô cùng to lớn, song những tác động tích lũy do con người gây ra đối với biển đang ngày càng nghiêm trọng. Đó là việc mực nước biển tăng với tốc độ ngày càng lớn, hiện tượng axit hóa, sự suy giảm oxy cũng như suy giảm các loài, ô nhiễm rác thải biển, nhiều sự kiện thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn nhưng theo cách khó dự báo. Những hiện tượng này không phải là mới mà đã được nhiều tổ chức quốc tế gióng lên hồi chuông cảnh báo từ nhiều thập kỷ trước.
Một số thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của mô hình kinh tế biển đối với các nước, trong đó Việt Nam, đó là biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường biển, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên biển, suy thoái môi trường sống và tình trạng ngoại lai xâm lấn.
Cùng với sự mở rộng khai thác tiềm năng kinh tế biển, nhiều thách thức cũng nổi lên, trong đó đặc biệt là tình trạng khai thác tài nguyên biển quá mức, ô nhiễm biển, suy giảm đa dạng sinh học biển, v.v… Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đó là việc khai thác tài nguyên biển đã không tính hết các tác động bất lợi đối với môi trường và xã hội hoặc các thể chế và quản trị yếu kém không đủ năng lực để đánh giá, quản lý, giám sát các tài nguyên biển theo hướng bền vững.
Theo phân loại các ngành kinh tế biển mới của UNCTAD và OECD (chẳng hạn như khai thác dầu khí nước sâu và cực sâu, khai thác khoáng sản biển và đáy biển, các hoạt động hỗ trợ cho dầu mỏ và hoạt động khí đốt, công nghệ sinh học biển, năng lượng tái tạo đại dương), trình độ khai thác và phát triển các ngành kinh tế biển mới của Việt Nam vẫn còn ở mức độ sơ khai hoặc chưa có. Để có thể khai thác và phát triển được các ngành kinh tế biển mới đòi hỏi phải tăng cường năng lực khoa học công nghệ, chất lượng nhân lực, cơ sở hạ tầng và thể chế. Thời điểm hiện nay được xem là thích hợp nhất, không thể chậm hơn để bắt đầu tạo dựng các nền tảng vững chắc đó. Bởi trong bối cảnh nhiều nước đang đầu tư để nâng cao năng lực tìm kiếm và khai thác các tài nguyên kinh tế biển mới, Việt Nam sẽ bị đứng ngoài cuộc chơi hoặc sẽ bị bỏ lại phía sau rất xa nếu như bây giờ chưa xem đó là một chạy đua và bắt đầu tăng cường năng lực ngay từ bây giờ.
Một số định hướng phát triển đối với nền kinh tế biển tại Việt Nam:
Thứ nhất, phát triển các ngành kinh tế biển: Đến năm 2030, đạt được một số thành công nhất định, bước đầu tạo đột phá cơ bản đối với các ngành kinh tế biển dựa trên các lợi thế so sánh của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, bao gồm: (i) công nghiệp ven biển; (ii) kinh tế hàng hải (cảng biển, logistics, dịch vụ hàng hải); (iii) du lịch biển, đảo; (iv) phát triển đô thị biển; (v) khai thác dầu khí, dịch vụ ngành dầu khí và hóa dầu; (vi) nuôi trồng và khai thác thủy sản; (vii) năng lượng tái tạo đại dương; (viii) phát triển các ngành kinh tế biển mới như khai thác dầu khí nước sâu và cực sâu, khai thác khoáng sản biển và đáy biển, các hoạt động hỗ trợ cho dầu mỏ và hoạt động khí đốt, công nghệ sinh học biển, năng lượng tái tạo đại dương.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế biển theo hướng mở, trên cơ sở tăng cường giao lưu, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển, đảo; đảm bảo chủ quyền quốc gia. Xây dựng nền kinh tế biển theo hướng mở để tận dụng các cơ hội kinh tế do hội nhập kinh tế và tự do thương mại, trong đó có tự do hàng hải mang lại. Tiếp tục tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa các nguồn lực hỗ trợ của cộng đồng quốc tế nhằm nâng cao năng lực quản lý, khai thác và bảo vệ các nguồn tài nguyên biển, trong đó chú trọng hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, chia sẻ tri thức, ứng dụng công nghệ trong việc khai thác các tài nguyên biển sâu, tài nguyên biển mới, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao.
Thứ ba, bảo tồn và khai thác bền vững nguồn tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển, đa dạng sinh học biển. Chú trọng công tác bảo tồn kết hợp với việc phân bổ và khai thác bền vững nguồn tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển; tiếp tục mở rộng diện tích hoặc thành lập mới các khu vực bảo tồn biển phù hợp với quy hoạch không gian biển quốc gia và vùng. Đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn, phát cảnh báo sớm để không xảy ra các sự cố ô nhiễm môi trường, rà soát để giảm thiểu, tiến đến loại bỏ các nguồn gây ô nhiễm.
Thứ tư, chủ động ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, chống thiên tai từ biển và đại dương. Nâng cao năng lực ứng phó, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, động đất, sóng thần; thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống biển xâm thực, xói lở bờ biển, ngập lụt, xâm nhập mặn. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị vật chất; tăng cường tiềm lực và năng lực ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là các công nghệ hiện đại, thông minh trong dự báo, cảnh báo, phòng, chống thiên tai, nghiên cứu ứng dụng các vật liệu tiên tiến có khả năng chống chịu tốt với tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, nhất là người dân sống ven biển và dựa vào biển; xây dựng và phát huy các giá trị văn hoá biển nói chung, trong đó có văn hóa biển bản địa. Quan tâm đầu tư, bảo tồn và phát triển các thiết chế văn hoá cho cộng đồng dân cư biển và ven biển. Có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển kinh tế và đảm bảo sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào thiểu số sống ở miền biển, đảo; phù hợp với triết lý phát triển bao trùm, bền vững về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển.
Thứ sáu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao năng lực ứng phó với các thách thức về chủ quyền, an ninh, an toàn biển, đảo của quốc gia. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân khu vực biển; bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển./.
(Phan Phuong Hoa)