Chuyên gia kinh tế: Các công ty Nhật Bản đang cân nhắc điều gì khi Trung Quốc từ bỏ lợi suất 17% và chuyển sang Đông Nam Á trong đó có Việt Nam?

0
46
(minh hoạ)
(minh hoạ)

Gần đây, Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị một lần nữa thăm các nước Đông Nam Á, điều này đã thu hút sự chú ý của thế giới bên ngoài. Thực tế không chỉ dừng lại ở bình diện chính trị, về kinh tế, Đông Nam Á từ lâu đã được coi là lĩnh vực cạnh tranh giữa các cường quốc, một số nước Đông Nam Á cũng vui mừng trước sự thay đổi này và đang tích cực đối phó. Ví dụ, vào một ngày sau khi Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị rời đi, Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hợp tác về thiết bị và công nghệ quốc phòng.

Nhật Bản đã nhiều năm đình đám ở Đông Nam Á, vào thời điểm quan hệ Trung – Mỹ và Trung – Nhật đang căng thẳng, các công ty Nhật không ngừng tăng cường đầu tư vào Đông Nam Á. Hiệu quả thực tế là gì?

Sau khi Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga tới Mỹ trong năm nay để gặp Tổng thống Biden, chính sách đối đầu với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực chính trị và kinh tế của ông đã bước vào giai đoạn thực thi. Tái thiết chuỗi công nghiệp độc lập của Nhật Bản và Mỹ bằng biện pháp “an ninh kinh tế”, và “tách rời” kinh tế khỏi Trung Quốc là một trong những biểu hiện quan trọng của sự đối đầu vững chắc với Trung Quốc, điều này khác với chính phủ Nhật Bản trước đây. Chính sách kinh tế và chính trị của chế độ Suga đối với Trung Quốc là sự tiếp nối chính sách ngoại giao của người tiền nhiệm Shinzo Abe đối với Trung Quốc. Truyền thông Nhật Bản thường tin rằng trong nhiệm kỳ Thủ tướng Nhật Bản của Shin Abe (tháng 12/2012 đến tháng 8/2020), trước cuối năm 2018, ông đã công khai phản đối Trung Quốc thông qua các chuyến thăm chính thức đến đền Yasukuni và bắt tay vào con đường ngoại giao để kiềm chế Trung Quốc. Về đầu tư nước ngoài, ngoại trừ năm 2016, đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN luôn nhiều hơn đầu tư vào Trung Quốc.

Có tổng cộng 11 quốc gia ở Đông Nam Á, trong đó Đông Timor không tham gia ASEAN. Khái niệm được sử dụng phổ biến nhất ở Nhật Bản khi nói về Đông Nam Á là ASEAN, khi viết bài này tác giả đã tham khảo thêm văn học Nhật Bản nên bài viết này cũng sẽ sử dụng “ASEAN” để thay thế khái niệm địa lý của Đông Nam Á.

Ngày 01/3/2021, Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) công bố số liệu thống kê: Tổng đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN năm 2020 là 2.290,6 tỷ yên, gần gấp đôi đầu tư vào Trung Quốc (1.286,5 tỷ yên). Bằng cách tăng cường đầu tư vào Đông Nam Á (ASEAN), Nhật Bản hy vọng sẽ thiết lập một chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh ở đây để kiềm chế Trung Quốc, hay nói một cách hoành tráng hơn – để tránh rủi ro đầu tư vào Trung Quốc. Đánh giá từ bức tranh mà JETRO đưa ra, Liên minh Châu Âu luôn là mục tiêu đầu tư ổn định và khổng lồ của Nhật Bản, tiếp theo là Mỹ. Khi Abe đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan hệ Nhật-Mỹ, đầu tư vào Mỹ đã vượt quá đầu tư vào Liên minh châu Âu, nhưng với sự đi xuống của Abe, đầu tư bắt đầu trở lại mức bình thường vào khoảng năm 2014. Khu vực có lượng đầu tư lớn thứ ba của Nhật Bản là ASEAN, và thứ tư là Trung Quốc. Mặc dù cả Abe và Suga, những người kế thừa lớp vỏ của Abe, đều rất coi trọng Ấn Độ và các phương tiện truyền thông Nhật Bản cũng đang thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư vào Ấn Độ, nhưng trên thực tế, có rất ít đầu tư vào Ấn Độ.

Nhật Bản đầu tư vào ASEAN dưới hình thức nào? Hiệu quả của nó như thế nào? Các công ty Nhật Bản nhìn nhận thị trường Trung Quốc như thế nào?

Đối với các công ty Nhật Bản, ASEAN rất khác với Trung Quốc: 10 quốc gia ASEAN có GDP là 3.2347 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2019, cao hơn một chút so với 1/5 của Trung Quốc. Nhưng ngôn ngữ, tiền tệ, hệ thống tài chính, tôn giáo, v.v. rất khác nhau. Diện tích đất của hầu hết các nước ASEAN tương đương với diện tích đất của một tỉnh hoặc thành phố ở Trung Quốc. Việc xây dựng một chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh ở một quốc gia như vậy không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, các thành phần phụ thuộc vào các nước bên ngoài ASEAN, đặc biệt phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc và Nhật Bản. Ngoài ra, mặc dù ASEAN đã đạt được tự do thương mại trong ASEAN, nhưng mức độ tự do hóa thương mại với Nhật Bản ở một số nơi vẫn còn rất cao. Không chỉ có các thủ tục thương mại, mà còn cả việc chuyển đổi hệ thống tiền tệ, sự khác biệt về các ngày lễ quốc gia, sự khác biệt về thói quen tôn giáo… đều là những vấn đề cần được quan tâm khi giao dịch thương mại. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN nhanh hơn nhiều so với Nhật Bản, nhưng lại thấp hơn nhiều so với Trung Quốc. Nhưng nhỏ có lợi nhỏ. Ví dụ, dù ở Thái Lan hay Malaysia, đều muốn rất dễ dàng đến thăm các quan chức địa phương và thậm chí cả các quan chức trung ương, tuy hiệu quả hành chính không nhanh. Singapore có vai trò hàng đầu về mọi mặt. Các báo cáo truyền thông của Singapore về cơ bản có thể bao quát toàn bộ ASEAN. Singapore thực sự là người phát ngôn của ASEAN và là nhà lãnh đạo nghiên cứu khoa học ở đây. Ở một mức độ nào đó, các nước ASEAN khác đã đặt Singapore là một trong những mục tiêu của họ, ngay cả khi họ có thể không nhìn thấy nó. ASEAN có sự ưu ái cao đối với Nhật Bản. Đặc biệt sau khi chiến tranh Việt Nam bùng nổ vào những năm 1960, Mỹ cấp thiết phải cho phép các nước láng giềng của Việt Nam phát triển kinh tế nhanh, Nhật Bản đã cung cấp máy móc thiết bị quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế. Sau những năm 1970, ASEAN, trừ Việt Nam, Campuchia và Lào, nơi xảy ra chiến tranh, sự phát triển kinh tế của các nơi khác tương đối ổn định. Trong khi cung cấp máy móc và thiết bị cho các nước láng giềng trong Chiến tranh Việt Nam, Nhật Bản cũng tích cực thúc đẩy khái niệm hòa bình ở đây, điều này đã làm thay đổi mối quan hệ giữa Nhật Bản và Đông Nam Á vốn đã vô cùng xấu đi trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các công ty Nhật Bản có thể cảm nhận được sự thân thiết này ở các nước ASEAN. Đặc biệt trong vài năm qua, cảm giác gần gũi với Trung Quốc của một số nước ASEAN đã giảm, điều này càng làm nổi bật sự gần gũi của họ với Nhật Bản. Nói một cách tương đối, các công ty Nhật Bản cũng sẵn sàng đầu tư vào các nước ASEAN, với sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản, loại hình đầu tư này đã tăng lên.

Đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN đã tăng gấp 10 lần trong 20 năm: JETRO đã xuất bản “Đánh giá lại: Nền kinh tế và Môi trường đầu tư của ASEAN” vào tháng 3/2021. Có một số điểm đáng chú ý. Thứ nhất, “Thống kê về cán cân tài sản và nợ nước ngoài của Nhà nước” của Bộ Tài chính Nhật Bản chỉ ra rằng tính đến năm 2019, tổng vốn đầu tư của các công ty Nhật Bản vào ASEAN là 265,5 tỷ USD, chiếm 14,3% trong tổng số 1.858,3 USD vốn đầu tư nước ngoài của Nhật Bản. So với năm 2000, đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN hiện đã tăng 10,6 lần. Thứ hai, số dư đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN năm 2000 là 25 tỷ đô la Mỹ. Trong cùng năm, đầu tư của họ vào Trung Quốc chỉ là 8,7 tỷ đô la Mỹ. Sự khác biệt giữa hai bên là 16,3 tỷ đô la Mỹ. Đến năm 2019, cán cân đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN đã cao hơn 135,2 tỷ USD so với đầu tư của nước này vào Trung Quốc. Đặc biệt, cần phải chỉ ra một lần nữa rằng tổng khối lượng kinh tế của ASEAN chỉ hơn 1/5 của Trung Quốc. Thứ ba, khi Chính phủ Nhật Bản hướng dẫn các doanh nghiệp chuyển chuỗi công nghiệp từ Trung Quốc sang các nơi khác như một chủ trương, thì một phần vốn đầu tư ban đầu vào Trung Quốc cũng được chuyển sang các nước ASEAN, quốc gia này ngày càng tăng cường đầu tư vào ASEAN.

Dựa trên quan sát và hiểu biết của tác giả về công nghệ và quản lý doanh nghiệp Nhật Bản, đặc điểm hoạt động và công nghệ quy mô nhỏ của các doanh nghiệp Nhật Bản phù hợp hơn với các nước ASEAN. Ô tô Nhật Bản bắt đầu đầu tư vào thị trường Trung Quốc có lẽ từ sau năm 2000. Sau khi hoàn thành vòng đầu tư này, công nghệ sản xuất quy mô lớn mang tính công nghiệp hiện đại về cơ bản đã bước vào giai đoạn chín muồi. Các công nghệ công nghiệp cao cấp mới, chẳng hạn như chất bán dẫn, pin dung lượng cao, thiết bị y tế tiên tiến, máy bay, v.v., hoặc không có ở Nhật Bản, hoặc Nhật Bản không muốn chuyển giao từ nước mình, hoặc không có khả năng đầu tư vào toàn bộ chuỗi sản xuất. Còn về công nghệ nhỏ, đặc biệt là công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhật Bản vẫn đang tiến bước, khoảng cách với các nước ASEAN còn lớn nên có thể tiếp tục vào các nước này. Sau năm 2017, với sự nổi lên của chính quyền Trump ở Mỹ, việc tách khỏi Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ cao đã được lên kế hoạch kỹ lưỡng. Ban đầu, chính quyền Abe coi Trung Quốc và Nhật Bản là mối quan hệ đối đầu. Chiến lược “Trung Quốc + 1” do chính quyền Abe thực hiện ngay từ đầu đã trở nên nổi bật hơn. Đánh giá từ kết quả của một cuộc khảo sát do JETRO thực hiện đối với hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của các công ty Nhật Bản vào năm 2019, việc chuyển giao chuỗi công nghiệp từ Trung Quốc chủ yếu được thực hiện từ 3 khía cạnh: di dời trực tiếp các nhà máy từ Trung Quốc sang những nơi bên ngoài Trung Quốc (Việt Nam, Indonesia, v.v.); việc thu mua nguyên liệu thô cũng đã chuyển từ Trung Quốc đại lục sang các nước hoặc khu vực khác; doanh số bán hàng trên thị trường cũng đã được thực hiện để giảm tỷ trọng doanh số bán hàng tại Trung Quốc. Sau năm 2020, sự xuất hiện của dịch bệnh đã phá vỡ chuỗi công nghiệp. Lợi dụng dịch bệnh, Nhật Bản cũng đã đẩy nhanh tốc độ xây dựng các chuỗi công nghiệp bên ngoài Trung Quốc. Về đề xuất của chính quyền Biden nhằm xây dựng lại chuỗi công nghiệp trong 4 lĩnh vực trọng điểm và triệt để cạnh tranh với Trung Quốc, chế độ Suga tất nhiên sẵn sàng hợp tác toàn diện.

Đánh giá tình hình hiện tại, đầu tư của Nhật Bản vào Đông Nam Á sẽ tăng lên trong tương lai, và khả năng cao là đầu tư vào ASEAN và đầu tư vào Trung Quốc sẽ ngày càng tách biệt. Chủ tịch của một công ty Nhật Bản sản xuất máy móc tại Trung Quốc cũng đã tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ Nhật Bản trong vài năm qua, di dời đến một nơi khác bên ngoài Trung Quốc để tránh rủi ro ở Trung Quốc.

Việt Nam là lựa chọn hàng đầu. Mặc dù việc đàm phán, chọn địa điểm, tuyển dụng nhà máy tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn nhưng cuối cùng đều vượt qua được. Tuy nhiên, một Chủ tịch Tập đoàn cho biết: “Một số quan chức ở Việt Nam tham nhũng khá mạnh. Điều này rất khác so với kinh nghiệm ở các nước trước đây. Người Việt Nam rất chăm chỉ, nhưng xét cho cùng họ không được đào tạo trong ngành. Không giống như ở Trung Quốc, nhiều công nhân đã làm việc ở các nhà máy khác và có một mức độ kinh nghiệm điều hành nhất định. Hầu hết những người mới được tuyển dụng ở Việt Nam đều không biết gì về ngành “. Sau khi nhà máy được xây dựng, một vấn đề đặc biệt lớn là việc mua các bộ phận, linh kiện tại Việt Nam rất khó khăn. Khi công ty này ở Trung Quốc, nhiều bộ phận, linh kiện có công ty Trung Quốc tham gia vào khâu thiết kế, bước vào khâu sản xuất rất dễ dàng, thay đổi sản phẩm cũng dễ dàng; nhưng ở Việt Nam chưa có công ty nào như vậy. Do đó, nhiều bộ phận và linh kiện cần phải được vận chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam để lắp ráp. vấn đề chi phí doanh nghiệp”. Hơn nữa, với sức tiêu dùng của người Việt, hầu hết các sản phẩm đều cần xuất khẩu sang Trung Quốc hoặc các nơi khác để bán. “Là cơ sở sản xuất, không thể so với Trung Quốc, không tìm được thị trường. Tôi cảm thấy việc đầu tư này rất có vấn đề.”

Trong mắt nhiều công ty, đặc điểm lớn nhất của Trung Quốc nằm ở thị trường, sức hấp dẫn của thị trường khiến các công ty cuối cùng quyết định đầu tư và sản xuất tại đây. Tổng quy mô kinh tế của ASEAN, khả năng đáp ứng các ngành công nghiệp, khả năng nghiên cứu khoa học, khả năng khai thác thị trường, v.v. sẽ không thể vượt qua Trung Quốc về mức tăng trong mười năm tới. Hãy đầu tư vào một nơi tương đối nghèo và xây dựng ở một nơi tương đối nghèo. Công nghiệp kết quả là chuỗi sẽ có tác động to lớn đến nền kinh tế đất nước. Nhìn vào mười năm qua, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản đã tụt hậu xa so với Mỹ, Châu Âu và Hàn Quốc. Báo chí thường xuyên đưa tin, các chính trị gia Nhật Bản như Abe suốt ngày bay lượn trên bầu trời, hầu như đi du lịch các nước lớn trên thế giới, tỏ ra cực kỳ siêng năng, nhưng việc Abe “làm việc chăm chỉ” đã khiến GDP của Nhật Bản giảm đi 20 % trong 10 năm. Năm 2011, GDP của Nhật Bản là 6,27 nghìn tỷ USD. Đến năm 2020, khi Abe từ chức thủ tướng, GDP của Nhật chỉ là 5,04 nghìn tỷ USD. Người ta ước tính rằng chỉ có Nhật Bản dưới thời Abe mới có thể làm như vậy, không có chiến tranh nhưng trải qua 10 năm làm giảm 20% GDP, và Suga, người kế thừa lớp vỏ của Abe, có khả năng tiếp tục “làm mất” Nhật Bản. Hãy nhìn Mỹ, trong mười năm qua, GDP đã tăng hơn 5 nghìn tỷ đô la Mỹ, tương đương với quy mô kinh tế tương đương với Nhật Bản. Đó không phải là những gì Abe và Suga có thể tưởng tượng. Một trong những nguyên nhân không thể không kể đến là vai trò của chính sách đầu tư vào Đông Nam Á của Nhật Bản trong những năm qua.

Nhưng điều khiến mọi người cảm thấy kỳ lạ là có một cuộc phỏng vấn với Nobuhiko Sasaki, chủ tịch JETRO, trong cùng một ấn bản của báo cáo. Chủ tịch Sasaki tin rằng “đối với nền kinh tế Nhật Bản, nền kinh tế Trung Quốc hoàn toàn không phải là đối tượng để cắt đứt quan hệ”. Chủ tịch Sasaki trích dẫn hai số liệu: Năm 2019, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư trực tiếp của các công ty Nhật Bản tại Trung Quốc là khoảng 17%, trong khi ở Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Nam Á chỉ khoảng 5%. Lợi tức đầu tư của các công ty Nhật Bản tại Trung Quốc là khoảng 17%, trong khi đó ở các nước như Mỹ chỉ khoảng 5%. “Chính sách an ninh kinh tế” của Nhật Bản đối với Trung Quốc, lạ thay, là cố tình tránh xa các thị trường sinh lời và làm việc chăm chỉ ở những nơi tương đối cằn cỗi.

(Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Ninh)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here