Theo Báo cáo được công bố của Ngân hàng Thế giới (WB), tính đến cuối năm 2023, 108 nước được phân loại có thu nhập trung bình, với thu bình quân đầu người hàng năm dao động từ 1.136 đến 13.845 đô la Mỹ. Dữ liệu của WB cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2022 ước tính đạt 4.010 đô la, tiệm cận với ngưỡng thu nhập trung bình cao.
Các nước thu nhập trung bình là nơi sinh sống của 6 tỉ người, chiếm 75% dân số toàn cầu. Trung bình, cứ 3 người ở khu vực thu nhập trung bình, có 2 người sống trong tình trạng nghèo cùng cực (thu nhập dưới 2,15 đô la/ngày). Các nước này đóng góp 40% GDP toàn cầu và là nguồn phát thải hơn 60% lượng khí thải carbon hàng năm trên thế giới.
Khi cố gắng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, họ đối mặt với những thách thức lớn hơn nhiều so với những nước đã nỗ lực như vậy trước đây. Đó là dân số già hóa nhanh chóng, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng ở các nền kinh tế tiên tiến và nhu cầu cấp bách về chuyển đổi năng lượng. Các nước thu nhập trung bình cần phải tạo ra những kỳ tích, không chỉ để để tiến lên vị thế thu nhập cao mà còn để thoát khỏi con đường tăng trưởng sử dụng nhiều carbon, gây hủy hoại môi trường.
WB đề xuất “chiến lược 3i” để các nước đạt được vị thế thu nhập cao. Tùy thuộc vào giai đoạn phát triển, tất cả các nước thu nhập thấp và trung bình cần áp dụng một loạt các chính sách có trình tự và nâng cao dần lên. Các nước thu nhập thấp có thể chỉ tập trung vào các chính sách được thiết kế để tăng đầu tư (increase investment), tức giai đoạn 1i. Nhưng một khi đạt được vị thế thu nhập trung bình thấp, họ cần chuyển hướng và mở rộng tổ hợp chính sách sang giai đoạn 2i: đầu tư và hấp thụ công nghệ mới (investment and infusion). Điều này bao gồm việc áp dụng các công nghệ từ nước ngoài và phổ biến chúng trên toàn nền kinh tế.
Khi đạt mức thu nhập trung bình cao, các nước nên chuyển hướng sang giai đoạn 3i cuối cùng: đầu tư, hấp thụ công nghệ mới và đổi mới (investment, infusion, and innovation). Trong giai đoạn đổi mới, các nước không còn đơn thuần vay mượn ý tưởng từ các công nghệ tiên phong trên toàn cầu nữa mà cần vượt các giới hạn đó.
Báo cáo của WB ghi nhận, Hàn Quốc là ví dụ nổi bật trong cả ba giai đoạn của chiến lược 3i. Năm 1960, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc chỉ ở mức 1.200 đô la. Đến cuối năm 2023, con số đó đã tăng lên 33.000 đô la.
Hàn Quốc bắt đầu nỗ lực cải thiện thu nhập bằng sự kết hợp chính sách đơn giản nhằm tăng cường đầu tư công và khuyến khích đầu tư tư nhân. Vào thập niên 1970, Hàn Quốc chuyển sang tập trung vào chính sách công nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp trong nước áp dụng công nghệ nước ngoài và các phương pháp sản xuất phức tạp hơn. Doanh nghiệp Hàn Quốc đã hưởng ứng. Cụ thể như Samsung, từng là hãng sản xuất mì sợi bắt đầu sản xuất tivi cho thị trường trong nước và khu vực. Để làm được điều đó, Samsung mua giấy phép sử dụng công nghệ của các công ty Nhật Bản là Sanyo và NEC.
Thành công của Samsung đã thúc đẩy nhu cầu về kỹ sư, nhà quản lý và các chuyên gia lành nghề khác. Chính phủ đã nỗ lực đáp ứng nhu cầu này. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đặt ra ra các mục tiêu và tăng ngân sách cho các trường đại học công lập nhằm giúp phát triển các bộ kỹ năng mới mà doanh nghiệp trong nước cần. Hiện nay, Samsung là một tập đoàn đa ngành và là nhà đổi mới toàn cầu, dẫn đầu về thị phần điện thoại thông minh và chip nhớ.
Các nước khác cũng đi theo con đường tương tự của Hàn Quốc, bao gồm Ba Lan và Chile. Ba Lan tập trung vào nỗ lực nâng cao năng suất bằng các công nghệ tiếp thu từ Tây Âu. Chile khuyến khích chuyển giao công nghệ từ nước ngoài xem đây như là giải pháp để thúc đẩy đổi mới trong nước. Một trong những thành công lớn nhất của Chile liên quan đến việc điều chỉnh công nghệ nuôi cá hồi của Na Uy cho phù hợp với điều kiện địa phương. Hiện nay, Chile là một trong những nước xuất khẩu cá hồi hàng đầu thế giới.
Những khó khăn nội tại của nền kinh tế và rủi ro từ bối cảnh bất ổn của kinh tế thế giới khiến nguy cơ “sập bẫy thu nhập trung bình” vẫn hiện hữu với kinh tế Việt Nam.
Từ một quốc gia quốc gia kém phát triển, Việt Nam đã dần “chuyển mình” để vươn lên vị trí thứ 37 trong số các quốc gia có GDP lớn nhất thế giới năm 2022, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam từ mức 200 đô la Mỹ vào đầu những năm 1990 tăng lên mức 3.590 đô la vào năm 2021, theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB).
Với mức thu nhập bình quân đầu người hiện tại, Việt Nam có khả năng gia nhập nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao trước năm 2030 nếu vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”.
Theo các chuyên gia, đa số các quốc gia thế giới khi chạm đến ngưỡng thu nhập trung bình cao thì tốc độ tăng trưởng chậm dần, bất ổn kinh tế mang tính cơ cấu xuất hiện và rất khó giải quyết dứt điểm. Ngoài ra, là các vấn đề về già hoá dân số, an sinh xã hội, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Kết quả là chỉ 13/101 quốc gia có mức thu nhập trung bình ở thập niên 60 của thế kỷ XX vượt qua khó khăn, vươn lên thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2008.
Với Việt Nam, kinh nghiệm từ những lần suy giảm kinh tế trước đây gồm khủng hoảng tài chính châu Á giai đoạn 1997-1998 và đại suy giảm toàn cầu giai đoạn 2008-2009, cho thấy không phải các chương trình kích cầu, đầu tư công mang lại thành tựu phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo, mà chính là cải cách thể chế kinh tế.
Thứ nhất, về thể chế cho thị trường tài chính, cần tập trung luật hoá việc xử lý nợ xấu, sửa đổi một số Luật gồm Luật Chứng khoán, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng,…
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định của hệ thống tài chính – tiền tệ; bổ sung mô hình, cơ chế, quy định để quản lý, giám sát tập đoàn tài chính, mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ (Fintech, huy động vốn cộng đồng…) và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Thứ ba, về nhân lực, lĩnh vực giáo dục – đào tạo, vốn có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế, có những chuyển biến khá chậm chạp nên không đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới khi chính phủ có xu hướng khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ở mảng công nghệ mới. Do đó, phải nâng cao kỹ năng, trình độ của lao động Việt Nam và tập quán làm việc công nghiệp để tiếp nhận được công nghệ mới mà các nhà đầu tư đưa vào.
Thứ tư, ưu tiên tập trung các ngành công nghệ cao như AI, bán dẫn, công nghệ số…; nghiên cứu, xây dựng chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những ngành này, đồng thời phát triển các doanh nghiệp chiến lược của Việt Nam đủ mạnh.