Từ năm 2018 đến nay, tình hình kinh tế trong nước Việt Nam ngày càng khởi sắc khi cơn đại dịch tưởng chưa có tác động đến Việt Nam. Trước hết, Việt Nam đã thu hút được một số lượng lớn các nhà máy nước ngoài vào nhờ lợi thế địa phương. So với các nước có dân số đông, Chính phủ Việt Nam có nhiều chính sách miễn thuế, giảm thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó tiền thuê đất có thể được giảm tới 15 năm. Việt Nam đã có các hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia, và 99% sản phẩm của Việt Nam sẽ được miễn thuế trong vài năm tới, đây là sức hút rất lớn đối với các công ty nước ngoài. Đồng thời, thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được giảm hoặc miễn ở các mức độ khác nhau, từ 10% đến 20%. Các chính sách ưu đãi này đã mang lại một số lượng lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ngành sản xuất của Việt Nam bắt đầu phát triển không ngừng, thu nhập của người dân Việt Nam cũng bắt đầu tăng lên, và nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trở nên thịnh vượng hơn. Đặc biệt kể từ khi bước sang nửa đầu năm 2021, thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu tăng điểm mạnh, mức tăng cao nhất lên tới 40%. Tuy nhiên, đằng sau cuộc đua tài chính này là âm mưu của tư bản Mỹ nhằm cướp bóc của cải Việt Nam. Khi sự phát triển kinh tế của Việt Nam ngày càng tốt hơn, thì những cải cách kinh tế của Việt Nam cũng bắt đầu ngày càng triệt để hơn. Kể từ khi Việt Nam thực hiện mô hình đổi mới như cải cách và mở cửa của Trung Quốc, nền kinh tế Việt Nam đã đưa vào một lượng lớn vốn nước ngoài. Môi trường kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư nước ngoài. Đồng thời, Việt Nam mặc dù phát triển ngày càng tốt hơn trên bề mặt nhưng lại luôn gặp bất lợi trong thương mại quốc tế. Việt Nam nhập siêu 2 tỷ USD vào tháng 5 năm 2021. Cần biết rằng nhập siêu trong 5 tháng đầu năm chỉ là 369 triệu USD. Những dữ liệu này có nghĩa là của cải tích lũy của người dân Việt Nam đã bị các nhà tư bản nước ngoài thâu tóm. Quan trọng hơn, nền kinh tế Việt Nam đã và đang bị vốn nước ngoài thâm nhập rất nhiều.
Dưới tác động mạnh mẽ của đại dịch năm nay, các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đã có sự gia tăng mạnh về số ca nhiễm mới sau khi bước vào tháng 6. Vào chủ nhật đầu tiên của tháng 7, số ca nhiễm tại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã vượt quá con số 2.000 chỉ trong một ngày. Điều này giống như “cháy cầu chì”, trực tiếp đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam xuống vực. Một số phương tiện truyền thông tinh ý phát hiện ra rằng vốn Mỹ đã rút khỏi thị trường tài chính Việt Nam sớm nhất là một tháng trước. Vào thời điểm thị trường chứng khoán Việt Nam tăng giá rầm rộ, tính đến tháng 6/2021, khối ngoại đã bán ròng khối tài sản ròng lên tới 360.000 tỷ VN đồng. Tư bản Mỹ đã bán một lượng lớn tài sản ròng vào thời kỳ đỉnh cao của thị trường chứng khoán. Với sự biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam, giá một số lượng lớn tài sản chất lượng cao đã giảm mạnh, lúc này, dòng vốn nước ngoài lại gia nhập thị trường để mua. Cũng chính vì chính sách thắt chặt đồng đô la Mỹ trên toàn cầu mà một lượng lớn đô la Mỹ đã bắt đầu quay trở lại Mỹ, và dòng vốn nước ngoài cũng bị rút ra khỏi Việt Nam. Một số quốc gia phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài sẽ bị rút ruột rất nhiều của cải trong cơn bão đô la này.
Bài học là: Đừng quá phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, vốn ngoại là cái tên khiến các nước vừa yêu vừa sợ. Dù là Trung Quốc khi xưa hay Việt Nam bây giờ, đều cần sự tham gia của vốn nước ngoài, chỉ có sự giúp đỡ của vốn nước ngoài thì bước đầu mới phát triển được, tuy nhiên khi nền kinh tế đất nước phát triển thì vốn nước ngoài sẽ trở thành nhân tố gây bất ổn. Bởi vì bạn không biết khi nào họ sẽ rút ra, một khi vốn nước ngoài rút đi, kinh tế Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Ngược lại, trong khi sử dụng vốn nước ngoài để vươn lên, Trung Quốc lại hỗ trợ mạnh mẽ vốn tự có của mình, từ những năm 1990, các doanh nghiệp địa phương của Trung Quốc đã từng bước bước khởi sắc. Mặc dù không thể cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài hạng nhất trong những ngày đầu, nhưng sau 10 năm 20 năm phát triển, Trung Quốc hiện đã có một số thương hiệu độc lập trên mọi khía cạnh của ngành sản xuất Trung Quốc. Sự gia tăng của vốn sở hữu nhà nước là niềm tin lớn nhất của các nhà máy tầm cỡ thế giới của Trung Quốc. Trở thành biểu tượng công xưởng của thế giới đồng nghĩa với việc bạn có thể cung cấp đủ loại hàng hóa cho thế giới. Việt Nam chưa có được khả năng như vậy. Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, câu chuyện lần này của Việt Nam đã cho Trung Quốc một lời cảnh báo rằng cả Trung Quốc và Việt Nam đều là những nước sản xuất lớn, và đều là nước đang phát triển. Vì vốn của Mỹ có thể bán khống thị trường Việt Nam, có nghĩa là Mỹ cũng có thể sử dụng phương pháp tương tự để bán khống thị trường Trung Quốc. Điều này khiến thị trường Trung Quốc phải cảnh giác. Nếu một ngày nào đó vốn nước ngoài rút khỏi thị trường Trung Quốc, liệu các doanh nghiệp trong nước có thể chịu được áp lực ngoại thương và nhu cầu nội khối rất lớn để tiếp tục duy trì huyền thoại về công xưởng thế giới của Trung Quốc hay không? Và trong quá trình chuyển đổi công nghiệp trong tương lai, nên tiếp tục dựa vào vốn nước ngoài hay dẫn đầu bằng vốn trong nước? Có thể thấy từ con đường của các nước phát triển, chỉ những nước có nhiều thương hiệu nội địa xuất sắc mới có thể trở thành nước phát triển trong tương lai.
(Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Ninh)