Tác động tiêu cực của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc thực hiện một số quyền hiến định tại Việt Nam

0
147

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra trên thế giới. Cuộc cách mạng lần này đã có tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội ở các nước trong cộng đồng quốc tế, mở ra những cơ hội mới cho các nước nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức không nhỏ. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung vào phân tích và đánh giá sự tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với việc thực hiện một số quyền hiến định ở Việt Nam. Cụ thể là đánh giá tác động của cuộc cách mạng này đối với việc thực hiện hai quyền hiến định là quyền sống (Điều 19) và quyền có việc làm (Điều 35) trong Hiến pháp 2013 của công dân Việt Nam trước làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tràn về Việt Nam.

1. Khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Lịch sử nhân loại cho đến nay đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp. Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1784) được đánh dấu bằng sự ra đời của máy hơi nước. Động cơ hơi nước đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, tác động trực tiếp đến các ngành dệt may, chế tạo cơ khí, và vận tải.

Tiếp theo cuộc cách mạng lần thứ nhất, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870) được đánh dấu bằng việc phát minh ra động cơ điện. So với cách mạng công nghiệp lần thứ nhất thì việc phát minh ra động cơ điện là một bước tiến lớn về trình độ kỹ thuật. Nhờ phát minh này mà cuộc sống của con người trở nên văn minh hơn, năng suất lao động vượt trội so với việc sử dụng động cơ hơi nước.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1969) là một bước tiến vượt bậc so với hai lần trước khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, điện thoại, internet, máy tính… Nhờ đó mọi người trong thế giới có thể liên lạc với nhau dễ dàng hơn, thể giới loài người dường như thu nhỏ lại, con người trở nên gần gũi nhau hơn thông qua các phương tiện kết nối toàn cầu.

Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, nhân loại bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là cuộc cách mạng diễn ra trong thế giới số thông qua các công nghệ như internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo, điện toán đám mây… Không giống với ba cuộc cách mạng diễn ra trước đó là đều gắn liền với sự ra đời mang tính lịch sử của một công nghệ nào đó góp phần tạo ra những bước ngoặt trong lịch sử nhân loại, cách mạng công nghiệp lần thứ tư chỉ là sự kết hợp nhiều công nghệ khác nhau mà trọng tâm là công nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin truyền thông nhằm đáp ứng những nhu cầu đặt ra trong cuộc sống của một xã hội hiện đại.

Khái niệm cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay cách mạng công nghiệp 4.0 được ra đời năm 2013 tại Đức. Trong một báo cáo của Chính phủ Đức, khái niệm công nghiệp 4.0 được đề cập đến để nói về chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Khái niệm này tiếp tục được Thủ tướng Đức Angela Merkel nhắc đến tại Diễn đàn Kinh tế thế giới tổ chức tại Davos vào tháng 1/2015. Hiện nay, khái niệm công nghiệp 4.0 đã trở thành khái niệm có tính phổ biến trên toàn cầu.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển trên ba trụ cột chính là kỹ thuật số, công nghệ sinh học và vật lý. Trong lĩnh vực kỹ thuật số, tập trung phát triển 3 yếu tố là trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối (Internet of Thing = IoT), dữ liệu lớn (Big Data). Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, tập trung nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong nông nghiệp, thủy sản, chế biến thực phẩm… và cuối cùng trong lĩnh vực vật lý là việc nghiên cứu cho ra đời những sản phẩm thế hệ mới như robot, máy in 3D, xe tự lái, công nghệ nano.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra ở các nước phát triển ở Châu Á, Châu Âu, Mỹ và xu hướng bắt đầu lan rộng ra nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cuộc cách mạng lần này mang lại nhiều cơ hội về phát triển kinh tế cũng như nâng cao đời sống xã hội. Đó là các ứng dụng trong y tế điện tử (số hóa tình trạng bệnh tật và chăm sóc y tế), các ứng dụng kỹ thuật tiên tiến của thời đại số hóa trong quản lý sản phẩm nông nghiệp, ứng dụng robot trong thu hoạch sản phẩm nông nghiệp, tất cả những điều đó hợp thành cái gọi là nông nghiệp thông minh, các ứng dụng trên các thiết bị trong cuộc sống sử dụng trí tuệ nhân tạo như tivi… Tuy nhiên, bên cạnh đó cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tạo ra những thách thức không nhỏ, thậm chí là có những tác động tiêu cực. Tại Việt Nam, cách mạng công nghiệp 4.0 tác động trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung xem xét những tác động tiêu cực đối với Việt Nam trên phương diện đảm bảo thực hiện quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013.

2. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với việc thực thi quyền hiến định tại Việt Nam

Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra cơ hội cho Việt Nam trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng bên cạnh đó cũng gây ra những tác động tiêu cực trong đó có việc thực thi các quyền hiến định. Trước hết chúng ta hãy xem xét những thách thức mà cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra đối với Việt Nam.

Cuộc cách mạng này bên cạnh những điểm tích cực thì theo nhiều chuyên gia trong và ngoài nước nhận định là có ảnh hưởng không nhỏ đến người lao động Việt Nam theo nghĩa không tích cực. Dự báo nhiều ngành như may mặc, dệt may, sản xuất gia công vẫn được xem là những ngành có ưu thế về lao động giá rẻ đang mất dàn lợi thế trước những tiến bộ về tự động hóa khi máy móc tham gia nhiều hơn vào quá trình sản xuất. Đánh giá về việc áp dụng những thành tựu kỹ thuật của cách mạng công nghiệp 4.0 vào Việt Nam, TS. Yashiro Hiroaki, Cơ quan Họp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) nhận định: “Tại Nhật Bản, chúng tôi cần cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bởi trí tuệ nhân tạo và các công nghệ có thể thay thế con người khi Nhật Bản đang già hóa dân số nhưng tại Việt Nam thì việc áp dụng trí tuệ nhân tạo có thể sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lực lượng lao động”. Theo ông, việc người máy thay thế người lao động sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến người lao động ở những quốc gia có lực lượng lao động dồi dào như Việt Nam. Bởi vì, khi máy móc thay thế con người thì nhiều người lao động với trĩnh độ tay nghề thấp sẽ mất việc. Chia sẻ quan điểm nàỵ, một chuyên gia trong nước TS Lê Đăng Doanh (nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương) cũng cho “đây là một thách thức lớn đối với người lao động không chỉ riêng ở Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia trong xu thế bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”. Rõ ràng, mặt trái của cách mạng 4.0 là tạo ra một tỉ lệ không nhỏ người lao động thất nghiệp ở những nước có lực lượng lao động ở trình độ thấp, sản xuất thủ công mà Việt Nam là một ví dụ. Theo các nghiên cứu ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì trong vòng 15 năm nữa tỉ lệ thất nghiệp của người lao động Việt Nam trong các ngành có nhiều lao động tham gia như da giày và may mặc có thể lên đến 86%. Bên cạnh đó số lao động trong các ngành nghề chế biến, chế tạo của Việt Nam cũng có mức rủi ro cao, dễ bị thay thế do tự động hóa. Con số trong các ngành này tuy thấp hơn trong ngành da giày, may mặc (74% so với 86%) nhưng cao hơn so với các nước trong khu vực như Philippines 54%, Thái Lan 58%, Indonesia 67%.

Nhìn vào con số dự báo như vậy có thể nhận thấy rằng cách mạng Công nghiệp 4.0 chắc chắn không phải là cơ hội cho những người lao động trình độ thấp tìm kiếm việc làm, trái lại nó còn làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp. Khi các hoạt động của con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng đều được thay thế bằng trí tuệ nhân tạo, khi thế hệ robot mới không cần trả lương, đóng bảo hiểm và các chi phí khác thay thế lực lượng lao động giá rẻ để tạo ra các nhà máy thông minh (smart factory) không càn sự hiện diện của con người thì sẽ phát sinh những vấn đề về xã hội tại Việt Nam. Đó là sự xuất hiện của một lực lượng lao động thất nghiệp lớn không có công ăn việc làm, không có thu nhập và dẫn theo đó là nhiều hệ lụy khác. Đây không chỉ là vấn đề của những người lao động mà còn là vấn đề mà Nhà nước Việt Nam phải đối mặt. Rõ ràng, những hệ lụy từ cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra cho Việt Nam những vấn đề không chỉ trên phương diện xã hội học, kinh tế học mà còn cả phương diện pháp luật đó là việc thực hiện các quyền hiến định. Những điều này liên quan trực tiếp đến việc thực hiện hai quyền quy định trong Hiến pháp 2013 của Việt Nam là quyền sống và quyền có việc làm. Những quyền hiến định này không chỉ là sự ghi nhận từ phía nhà nước đối với công dân Việt Nam mà còn thể hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo điều kiện để công dân của mình có thể thụ hưởng những quyền đó. Nói cách khác những quy định trong Hiến pháp mang hai ý nghĩa. Nó không chỉ là sự thừa nhận công dân có quyền mà còn là sự ghi nhận nghĩa vụ từ phía Nhà nước. Nhà nước không chỉ tôn trọng, bảo vệ mà còn phải bảo đảm quyền con người được thực thi. Nếu chỉ ghi nhận mà không tạo điều kiện (đảm bảo) để những quyền này được thực thi thì những quy định chỉ là những khẩu hiệu trên giấỷ chứ không có ý nghĩa nhiều về mặt thực tiễn, về mặt ý nghĩa thì quyền sống không chỉ là vấn đề tính mạng không bị xâm hại mà còn là việc có thể tồn tại của một con người với những điều kiện tối thiểu là ăn, mặc và ở. Như vậy, để đảm bảo quyền sống cho công dân của mình thì trách nhiệm từ phía nhà nước không chỉ là đảm bảo tính mạng không bị xâm hại mà còn phải đảm bảo cho công dân có thể tồn tại được trong môi trường sống của họ. Như đã đề cập ở trên, cách mạng 4.0 mang lại nhiều hệ lụy tiêu cực về việc làm cho người lao động giản đơn trong các ngành may mặc, dệt may… và những hệ lụy này tác động trực tiếp đến sự sống còn của những người lao động đó trong môi trường mới. Khi người lao động không có thu nhập do mất việc, điều này sẽ dẫn đến việc không thể thỏa mãn các điều kiện cần thiết tối thiểu cho sự tồn tại của họ. Có thể nói rằng cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã gây ra những khó khăn cho một bộ phận người lao động trong việc thực hiện quyền sống một trong những quyền hiến định, đồng thời ở một chừng mực nhất định cũng tạo ra những khó khăn cho Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình để đảm bảo quyền này được thực thi trên thực tế. Neu phía nhà nước không có động thái gì để giải quyết tình trạng thất nghiệp, mất việc làm, không có thu nhập của người lao động thì đồng nghĩa với việc quyền hiến định không được thực thi một cách trọn vẹn. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tác động đến việc thực hiện quyền sống mà còn tác động đến quyền có việc làm được quy định trong Hiến pháp 2013. Cũng giống như quyền sống, trách nhiệm từ phía nhà nước là không chỉ ghi nhận công dân có quyền có việc làm mà còn phải tạo điều kiện để công dân có thể thực hiện được quyền đó, tức là phải tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động. Rõ ràng với những hệ lụy mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại thì cơ hội có việc làm của những người lao động Việt Nam nói chung, đặc biệt là lao động trình độ thấp trong các ngành cần nhiều lao động như dệt may, da giày hiện nay là rất thấp. Với những đòi hỏi của cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì nguy cơ thất nghiệp là rất lớn không chỉ đối với nhóm người lao động đã và đang tham gia vào nền sản xuất hiện tại mà cả đối với những người trong độ tuổi lao động trong tương lai nếu họ không được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết có thể đáp ứng được những yêu cầu của một xã hội mới. Có thể nói rằng cách mạng 4.0 đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho Nhà nước trong việc thực thi quyền có việc làm, tức là đảm bảo cho người lao động có việc làm kể cả ở hiện tại và tương lai.

Rõ ràng nếu xét trên phương diện tỉ lệ lao động thất nghiệp gia tăng do ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì có thể nói rằng cuộc cách mạng này bên cạnh việc mang lại những cơ hội tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội thì cũng đặt ra nhiều thách thức mà một trong những thách thức đó là làm ảnh hưởng đến việc thực thi một số quyền hiến định tại Việt Nam. Do vậy, phía Nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể hướng đến đối tượng người lao động mà trước mắt là những người lao động mất việc do ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0, xa hơn là chính sách tổng thể trong việc đào tạo trình độ cho người lao động Việt Nam nói chung để phù hợp với những đòi hỏi của một xã hội trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Có như vậy mới đảm bảo thực hiện được các quyền hiến định ở Việt Nam khi làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư tràn về.

3. Một số giải pháp

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra hai vấn đề lớn mà nếu không giải quyết được sẽ gây ra nhiều vấn đề khác trong xã hội đó là tỉ lệ thất nghiệp gia tăng do việc sử dụng trí tuệ nhân tạo thay thế các lao động phổ thông và việc đào tạo trình độ cho người lao động trong tương lai để có thể bắt kịp với những yêu cầu đòi hỏi của một xã hội trong thời kỳ mới. Giải quyết tình trạng lao động dôi dư do áp dụng công nghệ mới và đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động cả ở hiện tại và tương lai là những vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết triệt để bởi cách mạng công nghiệp 4.0 là xu thế chung của thời đại, các nước sớm hay muộn đều phải trải qua và phải giải quyết các hệ lụy mà cuộc cách mạng này mang lại. Đối với trường hợp Việt Nam thì Nhà nước cần có chính sách tạo cơ hội việc làm cho những người lao động chịu ảnh hưởng tiêu cực của cách mạng công nghiệp 4.0 bằng hai cách: Thứ nhất, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của một bộ phận những người lao động này để họ có thể làm chủ công nghệ mới. Tuy nhiên, cách này cũng chỉ giải quyết được một số lượng nhỏ vì với những công nghệ tiên tiến của cuộc cách mạng này thì số lượng người lao động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất công nghiệp khồng nhiều. Chính vì lẽ đó, cần có sự chuyển đổi nghề nghiệp cho một bộ phận không nhỏ những người lao động trong các lĩnh vực cần nhiều lao động như dệt may, da giày… bằng cách trợ cấp kinh phí, hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp.

Thứ hai, đào tạo về mặt chuyên môn đối với những thế hệ tiếp theo để có thể đáp ứng được những yêu cầu của thời đại mới, bắt kịp với xu hướng chung của thế giới trong thời đại số hóa hiện nay. Để làm được điều này cần phải có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhưng trong đó đáng kể nhất là ngành giáo dục. Giáo dục phải lấy những yêu cầu đòi hỏi của thực tế cuộc sống, của cách mạng 4.0 để xây dựng chương trình đào tạo. Nói cách khác là phải đổi mới cách nghĩ để đào tạo ra những gì mà xã hội cần, lấy tiêu chuẩn của cách mạng công nghiệp 4.0 trên tất cả các mặt của đời sống xã hội làm mục tiêu hướng tới của đào tạo.

Như vậy, để khắc phục những hệ lụy mà cách mạng 4.0 mang lại trong việc thực hiện các quyền hiến định về việc làm và quyền sống cần có giải pháp trước mắt và giải pháp lâu dài, trước mắt là giải quyết tình trạng lao động dôi dư do tác động của việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn lâu dài là việc xác định mục tiêu đào tạo ở tất cả cầc trình độ, tất các hình thức, lĩnh vực để phù họp với xã hội trong thời đại mới. Phía nhà nước cần phải xác định đây là nhiệm vụ có tính cấp thiết để đảm bảo cho các quyền hiến định nêu trên được thực thi một cách trọn vẹn. về phương diện pháp luật thì đây là nghĩa vụ quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người, đây là nghĩa vụ mang tính chủ động, đòi hỏi các nhà nước phải tạo điều kiện để công dân của mình có thể hưởng thụ đầy đủ các quyền con người trong đó có quyền sống và quyền có việc làm. Nghĩa vụ này cũng yêu cầu các nhà nước phải chủ động đưa ra kế hoạch, chương trình cụ thể trong ngắn hạn và dài hạn để đảm bảo chọ các công dân của mình có thể thụ hưởng các quyền hiến định, nếu không thì những quyền hiến định sè trở thành những khẩu hiệu, những mục tiêu xa vời.

ThS. Nguyễn Ngọc Nghiệp

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here