5 năm xuất khẩu hàng hóa sang Hàn Quốc trong bối cảnh thực thi VKFTA

0
56

Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 13 hiệp định thương mại tự do (FTA) với khoảng hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việc thực thi các FTA, trong đó có Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) đã và đang tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế – xã hội Việt Nam, tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng gây nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Hàn Quốc hiện nay đang là đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực thương mại, đầu tư, cung cấp nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.

Bài nghiên cứu vận dụng lý thuyết thương mại tự do để phân tích, đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc trong hơn 5 năm thực thi VKFTA vừa qua, từ đó gợi mở một số giải pháp chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đầy tiềm năng này trong thời gian tới. 

Khái quát chung về VKFTA

Tháng 12/1992, Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đó đến nay, trải qua gần 1/4 thế kỷ, mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc. Quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc phát triển từ quan hệ đối tác thông thường lên “đối tác toàn diện trong thế kỷ 21” vào năm 2001, và “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược” vào năm 2009.

Hàn Quốc hiện nay đang là đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực thương mại, đầu tư, cung cấp nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Năm 2020, Hàn Quốc hiện đang đứng vị trí thứ nhất về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vị trí thứ hai về cung cấp nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vị trí thứ thứ ba về quan hệ thương mại hai chiều giữa hai nước. Đặc biệt, ngày 5/5/2015 hai bên ký kết Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) và chính thức có hiệu lực từ ngày 20/12/2015.

So với Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Hàn Quốc (AKFTA) (ký năm 2006 và có hiệu lực từ tháng 7/2007), thì trong VKFTA, Việt Nam và Hàn Quốc đã đàm phán và dành cho nhau nhiều ưu đãi hơn trong các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Có thể nói, VKFTA là FTA mang tính toàn diện, có mức độ cam kết cao và đảm bảo cân bằng lợi ích của hai bên.

Hiệp định gồm 17 chương, 208 điều, 15 phụ lục và 1 thỏa thuận thực thi quy định. Nội dung chính của Hiệp định bao gồm những quy định về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ (bao gồm các phụ lục về dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, di chuyển thể nhân), đầu tư, sở hữu trí tuệ, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), quy tắc xuất xứ, thuận lợi hóa hải quan, phòng vệ thương mại, hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại điện tử, cạnh tranh, hợp tác kinh tế, thể chế và pháp lý.

Cơ hội và thách thức từ VKFTA

Trong VKFTA, Hàn Quốc mở cửa nhiều hơn so với AKFTA cho các sản phẩm của Việt Nam, và do đó, các doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội tiếp cận thị trường này. Tổng hợp cả các cam kết trong VKFTA và AKFTA, Hàn Quốc xóa bỏ cho Việt Nam 11.679 dòng thuế (chiếm 95,44% biểu thuế, tương đương với 97,22% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam vào Hàn Quốc năm 2012). Việt Nam xóa bỏ cho Hàn Quốc 8.521 dòng thuế (chiếm 89,15% biểu thuế, tương đương 92,72% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc vào Việt Nam năm 2012) (Bộ Công Thương, 2015).

Theo Hiệp định, Hàn Quốc cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hầu hết những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam, đồng thời, Hàn Quốc cam kết giảm thuế đối với nguyên vật liệu đầu vào, linh kiện, phụ tùng để tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất của Việt Nam.

Việc thực thi VKFTA tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường Hàn Quốc nhờ các cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ từ phía Hàn Quốc. Hàn Quốc tuy là một thị trường phát triển với các yêu cầu và đòi hỏi tương đối cao về chất lượng hàng hóa nhập khẩu, nhưng nhìn chung các yêu cầu về nhập khẩu hàng hóa của thị trường này vẫn thấp hơn so với các thị trường nhập khẩu lớn khác của Việt Nam như EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Việc thực thi VKFTA cùng với các FTA khác khuyến khích Việt Nam cải cách thể chế, chính sách để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Hàn Quốc đặc biệt cam kết giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cùng với những quy định về nhiều tiêu chuẩn được đưa ra nhằm tăng cường và bảo vệ quyền của nhà đầu tư và giới thiệu cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư Hàn Quốc vào Việt Nam, góp phần nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu.

Ngoài ra, thực thi VKFTA góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu đối với nhóm hàng nguyên, phụ liệu phục vụ các ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực do Việt Nam cam kết mở cửa thị trường; giảm phụ thuộc vào nhập khẩu một số thị trường truyền thống, góp phần đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu, đồng thời đáp ứng được quy tắc xuất xứ hàng hóa trong VKFTA.

Việc thực thi VKFTA, bên cạnh những cơ hội, cũng gây không ít những thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp cận thị trường Hàn Quốc. So với thị trường các nước trong khu vực như các nước ASEAN (hơn 671 triệu dân năm 2020) hay Trung Quốc (khoảng 1.400 triệu dân), thì thị trường Hàn Quốc được coi là tương đối nhỏ (chỉ khoảng 51 triệu dân). Trong khi đó, yêu cầu về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm hay tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu cao hơn nhiều so với thị trường các nước ASEAN hay Trung Quốc.

Với hệ thống thị trường bán lẻ trong nước đã được hình thành khá vững chắc và hệ thống các siêu thị có chuỗi phân phối tương đối ổn định, việc thâm nhập vào các kênh bán hàng của Hàn Quốc không dễ dàng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không có chiến lược tìm hiểu VKFTA, cũng như đặc điểm thị trường, quảng bá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ bán hàng, đảm bảo số lượng và thời hạn giao hàng…, thì các doanh nghiệp khó có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.

Thực hiện VKFTA, các doanh nghiệp của Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ Hàn Quốc với giá cả phải chăng và chất lượng/mẫu mã tốt hơn tại thị trường trong nước. Lộ trình thực thi VKFTA và các FTA khác của Việt Nam trong những năm tới (Bảng) cùng với việc tiếp tục mở cửa thêm thị trường trong nước cho hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc sẽ lại càng tạo thêm áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp chậm đổi mới công nghệ và năng lực quản lý thấp.

Bảng: Mức thuế suất trung bình của các dòng thuế cam kết cắt giảm trong các FTA

Đơn vị tính: %

FTA Thuế suất bình quân 2019 Thuế suất bình quân 2020 Thuế suất bình quân 2021 Thuế suất bình quân 2022
ASEAN 0,07 0,06 0,05 0,04
ACFTA 3,6 2,98 2,98 2,98
AKFTA 5,9 5,9 4,6 4,6
AANZFTA 3,0 3,0 3,0 2,0
AIFTA 3,2 2,9 2,8 1,9
VCFTA 6,8 6,1 5,1 4,4
VKFTA 4,39 4,36 3,78 3,75
EVFTA 2,8 1,8 1,42 1,1
CPTPP 9,1 7,7 6,3 4,8
FTA 1/4/2018-31/3/2019 1/4/2019-31/3/2020 1/4/2020-31/3/2021 1/4/2021-31/3/2022
AJCEP 4,2 3,7 3,3 2,7
VJEPA 3,69 2,35 2,16 1,99

Nguồn: Bộ Tài chính (2019)

Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu

Sau hơn 5 năm có hiệu lực, VKFTA đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Năm 2020, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 66 tỷ USD, là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 và là đối tác nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (Zuki, 2021).

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng lên nhanh chóng, từ 4,71 triệu USD năm 2013 tăng lên đến 8,93 triệu USD năm 2015 (trước khi thực thi VKFTA) và tiếp tục tăng lên đến 19,72 triệu USD năm 2019. Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, kim ngạch xuất khẩu năm 2020 của Việt Nam sang Hàn Quốc có bị giảm nhẹ so với năm 2019, nhưng vẫn đạt tới 19,70 triệu USD (tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2015). Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc trong giai đoạn 2016-2020 đạt mức tăng trưởng trung bình 17,13%/năm và kim ngạch nhập khẩu tăng 10,5% trong cùng giai đoạn (Hình).

Số liệu ở Hình cho thấy, cán cân thương mại của Việt Nam với Hàn Quốc luôn trong tình trạng nhập siêu với giá trị lớn và có xu hướng gia tăng cùng với lộ trình thực hiện VKFTA. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu hết về VKFTA nên chưa biết tận dụng những cơ hội từ thị trường này, trong khi đó, các doanh nghiệp của Hàn Quốc có sự chuẩn bị rất kỹ các điều kiện để được hưởng ưu đãi thi thực thi Hiệp định.

Các mặt hàng mà Việt Nam và Hàn Quốc cam kết cắt giảm thuế trong VKFTA đều có mức tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu. Đối với Việt Nam là các mặt hàng: thủy sản, dệt may, đồ gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép các loại, xơ, sợi dệt các loại, rau quả. Đối với Hàn Quốc là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; nguyên phụ liệu dệt may, da giày; dây điện và cáp điện (Bộ Công Thương, 2020). Tuy nhiên, những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc vẫn chủ yếu là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, gia công, có giá trị thấp. Trong khi đó, các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hàn Quốc chủ yếu là nguyên phụ liệu liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất… có giá trị lớn. Giá trị nhập khẩu lớn từ Hàn Quốc phần lớn là các sản phẩm máy móc, linh kiện, thiết bị phục vụ các dự án đầu tư của chính các doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam, như: L&G, Samsung, Posco… trong bối cảnh khả năng cung cấp của các doanh nghiệp phụ trợ trong nước còn kém.

Một số kiến nghị chính sách

Để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng tối đa các cơ hội, đồng thời giảm thiểu những thách thức khi thực thi các FTA nói chung, VKFTA nói riêng, trong thời gian tới đòi hòi Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Một là, tiếp tục rà soát và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách theo hướng thực hiện đầy đủ các cam kết trong VKFTA theo lộ trình, phù hợp với điều kiện và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Quá trình điều chỉnh này phải đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch, đối xử công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp theo hướng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.

Hai là, đổi mới và đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức (báo đài, hội nghị, hội thảo, Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ, của bộ, ngành…) về các cam kết và lộ trình thực thi các cam kết của Việt Nam trong VKFTA cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, Bộ Công Thương cần quảng bá rộng rãi hơn nữa cuốn sổ tay về VKFTA thông qua tổ chức các khóa đào tạo hướng dẫn trực tiếp các doanh nghiệp (phân theo các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh) để doanh nghiệp nắm bắt thông tin, biết cách tận dụng cơ hội và giảm thiểu tác động tiêu cực từ VKFTA đối với các mặt hàng xuất khẩu.

Ba là, có cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi riêng, đặc thù và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn vào các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu, trọng điểm của Việt Nam sang Hàn Quốc trong giai đoạn 2021-2030. Thực hiện tốt cơ chế chính sách này cùng với việc mở cửa thị trường của Việt Nam trong VKFTA, sẽ góp phần khai thác tối đa làn sóng đầu tư mới của Hàn Quốc vào Việt Nam, tạo sự lan tỏa cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao giá trị gia tăng hàng xuất khẩu.

Bốn là, xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ và quy trình sản xuất sản phẩm đạt chất lượng và tiêu chuẩn của thị trường Hàn Quốc. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và triển khai, ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt công nghệ cao, quản trị tiên tiến theo các hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng được yêu cầu của thị trường Hàn Quốc.

Năm là, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin và dự báo thị trường Hàn Quốc, cùng với hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này. Trong đó, cung cấp thông tin tư vấn và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong quá trình tìm hiểu và thực hiện hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài liên kết với các doanh nghiệp trong nước trong sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu./.

PGS, TS. Ngô Thị Tuyết Mai và cộng sự

Đại học Kinh tế Quốc dân

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Công Thương (2015). Một số nội dung Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA)
  2. Bộ Tài chính (2019). Thông cáo báo chí về việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam, ngày 12/12/2019
  3. Bộ Công Thương (2020). Tọa đàm giữa Bộ trưởng Bộ Công thương với doanh nghiệp Hàn Quốc, tổ chức tại Hà Nội ngày 26//11/2020
  4. Ban Quan hệ Quốc tế – VCCI (2016). Hồ sơ thị trường Hàn Quốc
  5. Ban Quan hệ Quốc tế – VCCI (2020). Hồ sơ thị trường Hàn Quốc
  6. Zuki (2021). Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của TP. Hồ Chí Minh, truy cập từ https://hochiminhcity.gov.vn/-/han-quoc-la-thi-truong-xuat-khau-lon-thu-5-cua-tp-kim-ngach-xuat-khau-at-1-8-ty-usd
  7. VCCI (2019). Free Trade Agreement between the Government of the Socialist Republic of Vietnam and Government of the Republic of Korea

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here