Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị, Dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thị là một luật khó do chưa có một công cụ pháp lý cụ thể riêng cho lĩnh vực phát triển đô thị. Trong khi đó, các đô thị của Việt Nam có quy mô, địa điểm, lịch sử phát triển, vùng, miền đặc điểm rất khác nhau…
Xây dựng Dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thị là một trong những trọng tâm của Bộ Xây dựng trong thời gian tới. Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị, Luật Quản lý phát triển đô thị được kỳ vọng không chỉ để đáp ứng yêu cầu pháp lý mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đô thị bền vững.
Việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý phát triển đô thị nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo và chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển đô thị bền vững. Đây cũng là giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn đề phát sinh từ thực tiễn đô thị hóa, tạo tiền đề phát triển hệ thống đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế – Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị nhấn mạnh.
Ngoài ra, Dự thảo Luật được xây dựng trong bối cảnh có liên quan tới nhiều văn bản luật của nhiều lĩnh vực khác nhau. Đây vừa là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn khi phải bảo đảm sự thống nhất chung của hệ thống phát luật, bảo đảm không chồng chéo, trùng lắp.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021 – 2030 được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định vai trò của đô thị là động lực phát triển vùng, đồng thời đặt ra yêu cầu “hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, công cụ quản lý đô thị gắn với nâng cao chất lượng sống, hiệu quả kinh tế – xã hội và khả năng cạnh tranh”.
Dự thảo Luật lần này được xây dựng dựa trên 5 chính sách cốt lõi đã được Quốc hội thông qua, gồm 7 chương, 100 điều tương ứng với 7 nhóm nội dung: những quy định chung; hệ thống đô thị, phân cấp, phân loại đô thị; chương trình phát triển đô thị, hệ thống đô thị và quản lý các khu vực phát triển hạ tầng đô thị; quản lý phát triển hạ tầng đô thị; quản lý phát triển không gian ngầm đô thị; trách nhiệm quản lý phát triển đô thị; điều khoản thi hành.
Bộ Xây dựng đã tổ chức nhiều vòng tham vấn ý kiến từ các bên liên quan, nhấn mạnh tính đồng bộ và khả thi của dự thảo trong bối cảnh hệ thống pháp luật ngày càng phức tạp. Đây cũng là bước đi quan trọng trong lộ trình xây dựng một khung pháp lý đồng bộ và hiệu quả để quản lý và phát triển đô thị tại Việt Nam, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Ông Trần Quốc Thái – Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) chia sẻ, hệ thống đô thị cả nước đang tăng nhanh về số lượng, hình thành nên các vùng đô thị hóa cùng với những chuỗi, chùm đô thị phân bố rộng khắp các vùng, miền. Theo đó, chất lượng sống tại đô thị cũng từng bước được nâng cao; hệ thống đô thị dần chuyển đổi từ phát triển dàn trải sang phát triển có trọng tâm, trọng điểm; việc phân cấp, phân nhiệm trong quản lý phát triển đô thị được thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật, thực trạng phát triển đô thị Việt Nam vẫn tồn tại 5 nhóm hạn chế lớn gây tác động đến sự phát triển bền vững. Điển hình là sự phân bố đô thị trong hệ thống đô thị Việt Nam còn thiếu tính liên kết, chưa phân cấp rõ nét, chưa phát huy được kết nối vùng trong hệ thống đô thị, việc áp dụng mô hình phát triển mới, bền vững còn thiếu chiều sâu. Yếu tố vùng miền, đặc thù, đặc trưng của các đô thị chưa phát huy, tạo nên lợi thế so sánh cho các đô thị.
Ngoài ra, việc tổ chức xây dựng, phát triển đô thị theo quy hoạch yếu, không gắn với nguồn lực. Phát triển phình rộng đô thị còn phổ biến, chưa phát huy được nguồn lực, sự tham gia của cộng đồng và cư dân đô thị.
Hiện hạ tầng các trung tâm đô thị lớn bị quá tải, chưa thích ứng với biến đổi khí hậu, ứng phó với dịch bệnh quy mô lớn; tính liên kết yếu. Tại đô thị lớn, một số chỉ tiêu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị chưa đạt yêu cầu làm giảm chất lượng đô thị.
Việc khai thác không gian ngầm cũng rất hạn chế, chưa phát huy và khai thác có hiệu quả việc sử dụng. Không gian ngầm mới chỉ được chú ý phát triển trong những năm gần đây nhưng mang tính cục bộ, chỉ khai thác cho một mục đích riêng chứ chưa có liên kết tổng thể cho cả khu vực hay một đô thị; chưa được quản lý và khai thác hiệu quả, có hệ thống trong đô thị.
Bên cạnh đó, năng lực quản lý và quản trị đô thị chậm được đổi mới, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý; chưa đề cao vai trò, trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương gắn với nâng cao năng lực, trình độ quản lý và phát huy sự tham gia, thực hiện của cộng đồng dân cư trong quản lý phát triển đô thị…
Bộ Xây dựng cho biết, ngay từ cuối năm 2021, Bộ đã tổ chức rà soát thận trọng tình hình phát triển đô thị Việt Nam và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về lý do, sự cần thiết nghiên cứu, xây dựng Luật về đô thị.
Cụ thể hoá quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển đô thị, triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã phối hợp với các bộ ngành, địa phương nghiên cứu tham mưu Chính phủ trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV và đã được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025.
Dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thị dự kiến trình xin ý kiến Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9 và thông qua tại Kỳ họp 10 Quốc hội khóa XV.
Bộ Xây dựng cho biết mục đích việc ban hành Luật Quản lý phát triển đô thị nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm về phát triển bền vững đô thị Việt Nam được xác định tại Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị và các văn bản chỉ đạo khác của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, để điều chỉnh những vấn đề phát sinh từ thực tiễn quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị trong giai đoạn hiện nay và các năm tiếp theo, góp phần phát triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam và từng đô thị trong hệ thống.
Theo đó, quan điểm xây dựng dự án Luật Quản lý phát triển đô thị là: Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển bền vững đô thị Việt Nam và nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và hiệu lực của hệ thống pháp luật. Kế thừa, phát huy và luật hóa các quy định đã được chứng minh là phù hợp, có hiệu quả trong thực tiễn. Tham khảo có chọn lọc quy định pháp luật của một số quốc gia và tổ chức quốc tế trên thế giới phù hợp với thực tiễn tình hình phát triển của Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế.
Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, phù hợp với từng vùng, miền, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; đô thị hình thành, xây dựng mới, vận hành, phát triển, cải tạo chỉnh trang, tái thiết có trật tự, theo quy hoạch và có kế hoạch, trong đó quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị phải đi trước một bước; bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên tự nhiên, nhất là tài nguyên đất đai.
Tạo điều kiện, tiền đề để từng bước phát triển các đô thị theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh; hình thành và phát triển đô thị đáng sống đối với cư dân và hấp dẫn đối với nhà đầu tư, có vai trò, vị thế động lực dẫn dắt phát triển kinh tế – xã hội.
Đề cao vai trò trách nhiệm chính quyền các đô thị, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị – xã hội tham gia quản lý đô thị, thực hiện phân cấp, phân quyền và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về phát triển đô thị.
Chu Văn