Tăng trưởng kinh tế Việt Nam gần đây cao hơn do điều kiện thuận lợi trong nước và quốc tế, nhưng có thể tốc độ tăng sẽ giảm dần nếu Chính phủ không tiếp tục đẩy mạnh cải cách.
Đó là nhận định tại cuộc Họp báo Điểm lại: Tình hình kinh tế Việt Nam, do Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức ngày 14/6 tại Hà Nội. Đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua đã được củng cố và song hành với ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng nguồn tăng trưởng trong thời gian qua chủ yếu dựa vào nhu cầu trên quy mô toàn cầu đang ở chu kỳ tăng, đầu tư ở khu vực FDI và khu vực tư nhân đang khôi phục, và quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành dịch vụ, chế tạo và chế biến có năng suất cao hơn đang diễn ra.
Triển vọng kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục được cải thiện với tốc độ tăng trưởng GDP năm 2018 đạt khoảng 6,8%, song WB cũng chỉ rõ, nếu không chú trọng vào một số ưu tiên cải cách thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể sẽ chậm lại.
Ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng trong năm 2017 và quý I/2018 đang tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục tiến lên. Giai đoạn kinh tế đang vận hành vững chắc là cơ hội lớn để đầu tư cho nguồn nhân lực, nhờ đó giải quyết những thách thức nhằm duy trì đà tăng trưởng. Ngân hàng Thế giới sẵn sàng hỗ trợ để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững, dài hạn.
GDP thực tăng gần 7,4% trong quý I/2018 nhờ môi trường bên ngoài thuận lợi với tăng trưởng GDP toàn cầu dự kiến đạt đỉnh ở mức 3,1% trong năm nay. Tăng trưởng ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương dự kiến sẽ chững nhẹ 6,3% trong năm 2018 chủ yếu do Trung Quốc tiếp tục chậm dần đà tăng trưởng.
Cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục được cải thiện do kết quả vững vàng về thương mại và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng góp vào tổng thặng dư tài khoản vãng lai ước đạt 6,8% GDP (quý I/2018). Tỷ giá được duy trì tương đối ổn định, trong khi dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng, ước đạt 63 tỷ đô la Mỹ trong 4 tháng đầu năm 2018, tương đương 3,6 tháng nhập khẩu.
Trong bối cảnh lạm phát thấp, chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam tăng nhẹ ở mức 2,8% (so với cùng kỳ năm trước) tại tháng 4/2018. Tăng trưởng tín dụng ở mức khá cao và thanh khoản dồi dào có thể làm gia tăng biến động trên các thị trường tài chính ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh chính sách tiền tệ trên toàn cầu dự kiến sẽ thắt lại. Nợ công đã có dấu hiệu ổn định lại từ năm 2017 với tổng bội chi ngân sách ước tính sơ bộ ở mức 4,5%GDP. Tỷ lệ nợ công/GDP giảm còn 61,4% năm 2017 so với 63,6% năm 2016.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, Triển vọng trung hạn của Việt Nam tiếp tục cải thiện kể từ lần ban hành báo cáo trước vào tháng 12/2017. GDP theo giá so sánh dự kiến tăng 6,8% trong năm nay (so với 6,5% từ lần dự báo trước đó) trước khi ổn định lại ở mức 6,6% vào năm 2019 và 6,5% vào năm 2020, do sức cầu trên toàn cầu thế giới dự kiến sẽ chững lại. Dự báo lạm phát sẽ ở mức xung quanh mục tiêu 4% của Chính phủ. Cân đối tài khoản vãng lai dự kiến vẫn đạt thặng dư, nhưng có thể sẽ ở mức thấp hơn trong năm tới, do thâm hụt tăng lên ở tài khoản thu nhập và dịch vụ. Bội chi ngân sách và nợ công dự kiến vẫn trong vòng kiểm soát.
Theo ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam, điều kiện kinh tế thuận lợi như hiện nay với tăng trưởng cao và lạm phát thấp là cơ hội đặc biệt để đẩy mạnh cải cách. Chính sách kinh tế vĩ mô cẩn trọng cần song hành với những cải cách cơ cấu sâu và toàn diện bao gồm cải cách các quy định để loại bỏ rào cản và giảm chi phí hoạt động của khu vực tư nhân, đầu tư cho nguồn nhân lực và hạ tầng chất lượng cao; đồng thời, tiếp tục cải cách để nâng cao năng suất của khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù triển vọng trước mắt được cải thiện, nhưng còn nhiều rủi ro. Nhìn từ trong nước, tiến độ tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp Nhà nước và khu vực ngân hàng còn chậm có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến tình hình tài chính vĩ mô, làm giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra các nghĩa vụ nợ lớn cho khu vực Nhà nước. Rủi ro bên ngoài bao gồm chủ nghĩa bảo hộ thương mại đang trỗi dậy, bất định căng thẳng địa chính trị và quá trình thắt chặt tiền tệ diễn ra sớm hơn dự kiến có thể dẫn đến những biến động gây xáo trộn trên thị trường tài chính.
Rủi ro bên ngoài sẽ bao gồm chủ nghĩa bảo hộ thương mại đang trỗi dậy, bất định căng thẳng địa chính trị và quá trình thắt chặt tiền tệ diễn ra sớm hơn dự kiến có thể dẫn tới những biến động gây xáo trộn trên thị trường tài chính.
Cũng theo báo cáo, Chuyên gia kinh tế cao cấp của Văn phòng WB tại Việt Nam Phạm Minh Đức, đề cập tới những ưu tiên cải cách nhằm giảm chi phí thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Trong báo cáotại mục chuyên đề đặc biệt của báo cáo đề cập đến những ưu tiên cải cách nhằm giảm chi phí thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam Mặc dù, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả lớn và cắt giảm thuế quan, nhưng hiện vẫn còn nhiều cơ hội để giảm chi phí thương mại thông qua việc hợp lý hóa các biện pháp phi thuế quan hoặc kiểm tra chuyên ngành, nâng cao hiệu quả quản lý cửa khẩu và dịch vụ hậu cần. Điều đó có thể được thực hiện qua 1 chương trình tổng thể gồm 4 trụ cột là: Giảm chi phí thương mại – liên quan tới thời gian tuân thủ các thủ tục và biện pháp kiểm tra chuyên ngành trước khi ra cửa khẩu và tại cửa khẩu; Cải thiện chất lượng kết nối và hạ tầng liên quan tới thương mại; Hình thành ngành dịch vụ logistics cạnh tranh; Tăng cường phối hợp liên ngành và phối hợp với khu vực tư nhân….
Chu Văn (theo WB)