Tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam đã được nâng từ mức “BB-” lên mức “BB” với triển vọng “ổn định”, xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn cho Việt Nam cũng ở mức “B”. Hình ảnh Việt Nam đang được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế ghi nhận bởi những nỗ lực cải cách.
S&P nhận định Việt Nam tuy là quốc gia có thu nhập nằm trong nhóm trung bình thấp nhưng có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và cơ cấu kinh tế đa dạng. Những cải thiện trong ổn định kinh tế vĩ mô đã hỗ trợ cho sự tăng trưởng mạnh của khu vực FDI và các ngành chế biến chế tạo phục vụ xuất khẩu (điện tử, điện thoại, dệt may). Khu vực FDI tăng trưởng tốt kéo theo các hoạt động kinh tế trong nước tăng trưởng mạnh mẽ. Tăng trưởng của khu vực xuất khẩu cùng với cầu nội địa khá mạnh mẽ sẽ giúp tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực tế cao hơn mức dự báo trung bình cho cả giai đoạn. Đồng thời, nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân 6,2%/năm kể từ năm 2012 đến nay, GDP bình quân đầu người tăng gấp rưỡi trong vòng 6 năm (từ 1.754 USD năm 2012 lên 2.572 USD năm 2018). S&P dự báo tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực của nước ta sẽ đạt 5,7%/năm từ nay đến năm 2022, cao hơn mức bình quân của các nước có mức thu nhập tương đồng.
Trích dẫn xếp hạng của Việt Nam về môi trường kinh doanh trong Báo cáo Doing Business của WB, S&P nhìn nhận môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện vượt bậc trong những năm gần đây, với vị trí xếp hạng đạt ở mức 69/190 quốc gia được xếp hạng năm 2018, cải thiện 30 bậc chỉ trong 06 năm (so với vị trí xếp hạng thứ 99 của năm 2012). Với môi trường kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ, việc thu hút các luồng vốn vào qua đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FII) ngày một hiệu quả hơn đã củng cố cho việc nâng hạng tín nhiệm.
Liên quan đến hoạt động ngân hàng, theo đánh giá của S&P, quy mô dư nợ tín dụng so với GDP là tương đối lớn so với các quốc gia khác. Tuy nhiên, cùng với việc Ngân hàng nhà nước kiểm soát chặt chẽ dòng vốn tín dụng, tín dụng của hệ thống ngân hàng đã tăng trưởng chậm lại đáng kể trong năm 2018, đồng thời xu thế này nhiều khả năng tiếp tục được duy trì trong những năm tới, góp phần tích cực trong việc củng cố sự ổn định của hệ thống ngân hàng. S&P đánh giá cao tầm quan trọng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc hiệu chỉnh chính sách tiền tệ cho phù hợp với chính sách tài khóa và những chính sách kinh tế phát triển khác nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. S&P cũng nhận thấy việc sử dụng các công cụ mang tính thị trường trong thực thi chính sách tiền tệ đã thực sự phát huy hiệu quả duy trì lạm phát ở mức thấp trong những năm gần đây. Do vậy, đánh giá về tính chuyển đổi của đồng VND cũng được S&P nâng hạng từ “BB-” lên “BB”.
Trước đó, thông tin về điều hành chính sách tiền tệ quý I/2019, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho hay, công tác điều hành của Ngân hàng Nhà nước theo phương châm mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả. Đặc biệt, duy trì mức tăng tương ứng của tỷ lệ tín dụng/GDP. Nếu như năm 2016, tỷ lệ này ở mức tăng 122%, năm 2017 là 130% thì năm 2018 Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều hành để không tăng lên, vẫn duy trì ở mức 130% và năm 2019 cũng theo định hướng này./.
Thùy Linh