Nếu Việt Nam đạt được những đột phá trong chất lượng cải cách thể chế sẽ dẫn tới chất lượng tăng trưởng được cải thiện và tốc độ GDP trung bình có thể đạt tới 6,76%/năm.
Tại Hội thảo công bố Báo cáo “Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch Covid-19: Đề xuất cho Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định thực hiện dưới sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, đại dịch Covid-19 đã gây ra những tác động bất lợi, sâu rộng đối với kinh tế toàn cầu. Đến nay, đại dịch vẫn có những diễn biến hết sức phức tạp, cho dù nhiều nước đã bắt đầu quá trình phổ biến vaccine.
Trong nước, Covid-19 vẫn còn nhiều diễn biến khó lường và cần có nhiều những đánh giá về tình hình dịch bệnh, hệ lụy đối với nền kinh tế Việt Nam cũng như các yêu cầu cải cách trong thời gian tới.
Kể từ đầu năm 2020, Việt Nam phải đối mặt với hai làn sóng bùng phát của đại dịch Covid-19. Với phản ứng quyết liệt và khá sớm, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia được đánh giá là tương đối thành công trong kiểm soát Covid-19.
Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đã thể hiện những bước chuyển phù hợp, linh hoạt, song kiên định với “mục tiêu kép”, vừa quyết liệt phòng chống dịch hiệu quả; vừa tập trung phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Các cải cách về môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp… tiếp tục có sự liền mạch với các năm trước. Các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế mới tiếp tục được nghiên cứu, cân nhắc, bên cạnh việc rà soát, điều chỉnh quy định liên quan đến tiếp cận một số gói hỗ trợ trước đó (về tín dụng, thuế, an sinh xã hội…).
Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, với việc tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh trong những tháng đầu năm 2021, các hoạt động kinh tế-xã hội trong cả nước tiếp tục đà phục hồi. Trong bối cảnh đại dịch, Việt Nam duy trì có tốc độ tăng GDP đạt 2,91% trong năm 2020 và phục hồi ở mức 4,48% trong quý I/2021. Với kết quả này, các tổ chức quốc tế đều duy trì đánh giá tích cực về kinh tế Việt Nam, cao hơn so với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới và khu vực Đông Á.
Ngay trong bối cảnh đại dịch, Việt Nam vẫn chứng kiến những diễn biến khá sôi động về hội nhập kinh tế quốc tế như phê chuẩn và thực thi Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam (EVFTA), Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Vương quốc Anh (UKVFTA) hay ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Song song với đó, Việt nam cũng ghi dấu trong các hoạt động đối ngoại như vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA 41 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, Viện trưởng CIEM cũng cảnh báo rằng, mặc dù được đánh giá là một trong số ít các quốc gia thành công trong kiểm soát đại dịch Covid-19, tạo tiền đề cho phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước, tái mở cửa kinh tế an toàn, nhưng Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch dài hơi hơn, tránh rủi ro “cạn kiệt” không gian chính sách và giảm động lực cải cách thể chế kinh tế.
Bên cạnh đó, tổng vốn phát triển toàn xã hội năm 2020 tăng 5,7% và thấp hơn 4,5 điểm phần trăm so với năm 2019, bên cạnh đó tỷ trọng đầu tư/GDP chỉ đạt 34,4%; hiệu quả đầu tư tính theo hệ số ICOR sụt giảm đột ngột trong năm 2020 (hệ số ICOR tăng tới gần 14,3).
Trong khi đó, dịch bệnh Covid-19 trên thế giới còn diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực của dịch bệnh đến các mặt của đời sống kinh tế-xã hội còn tiếp tục kéo dài, chưa thể đánh giá hết.
Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn mặc dù đã có sự thích ứng, cả về tổ chức sản xuất, sử dụng lao động và ứng dụng các mô hình, cách thức kinh doanh mới (đặc biệt gắn với nền tảng số). Đại dịch Covid-19 đã tác động nặng nề tới nhiều ngành nghề, đặc biệt là du lịch.
Đặt trong bối cảnh ấy, TS. Trần Thị Hồng Minh cho biết, báo cáo đưa ra một số cân nhắc về quá trình phục hồi và cải cách thể chế kinh tế trong thời gian tới. Điều này bao gồm ổn định và phục hồi kinh tế vĩ mô, cải cách thể chế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, vai trò của Nhà nước và không gian kinh tế cho khu vực tư nhân, thời điểm tiến hành cải cách… cũng được nhìn nhận thấu đáo trong giai đoạn phục hồi tăng trưởng sau đại dịch.
Viện trưởng CIEM cho hay, báo cáo “Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch Covid-19: Đề xuất cho Việt Nam” của CIEM cũng đề xuất định hướng và lộ trình chính sách cho giai đoan 2021-2023.
Năm 2021, Việt Nam cần tiếp tục phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp và người lao động, kết hợp cải cách thể chế kinh tế.
Năm 2022, CIEM khuyến nghị nên kết hợp giải pháp phục hồi kinh tế và cải cách thể chế kinh tế.
Đến năm 2023, Việt Nam có thể rút dần các giải pháp hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và tập trung vào cải cách thể chế kinh tế.
CIEM cho hay, triển vọng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2023 được đánh giá dựa trên 3 kịch bản gồm kịch bản bình thường; kịch bản trong bối cảnh nới lỏng tài khóa và tiền tệ; kịch bản nếu có biện pháp nới lỏng tài khóa và tiền tệ, cùng với cải cách thể chế.
Nếu đạt được những đột phá trong chất lượng cải cách thể chế dẫn tới cải thiện chất lượng tăng trưởng song hành với các biện pháp nới lỏng tài khóa và tiền tệ đúng trọng tâm, đúng thời điểm, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình có thể đạt tới 6,76%/năm giai đoạn 2021-2023, đi kèm cải thiện đáng kể về năng suất.
Gia Thành