Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phục hồi nhưng vẫn sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, trở ngại.
Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2022 với chủ đề “Nâng cao nền tảng số cho cho ngành dịch vụ” do VEPR phối hợp với Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức sáng 20/5, tại Hà Nội.
Dự báo kinh tế Việt Nam năm 2022, VEPR đánh giá, nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi nhưng vẫn sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, trở ngại. Cụ thể như:
Thứ nhất, các rủi ro từ đại dịch, nguy cơ xuất hiện biến chủng mới mặc dù những diễn biến gần đây cho thấy sự cải thiện trong kiểm soát dịch bệnh toàn cầu.
Thứ hai, áp lực lạm phát và chi phí sản xuất đang tăng lên rất mạnh.
Thứ ba, rủi ro từ xung đột Nga – Ukraine. Mặc dù các tác động trực tiếp không quá lớn do quan hệ thương mại và đầu tư song phương giữa hai quốc gia này với Việt Nam khá nhỏ, nhưng các tác động gián tiếp là rất lớn.
Thứ tư, sự chậm lại của kinh tế toàn cầu và các nền kinh tế kinh tế đối tác quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là Trung Quốc trong bối cảnh nước này vẫn tiếp tục chính sách “zero Covid” với các biện pháp kiểm soát dịch nghiêm ngặt có thể gây căng thẳng cho nền kinh tế, ảnh hưởng tới các chuỗi cung ứng, qua đó tác động tới kinh tế Việt Nam.
Thứ năm, sự lệch pha trong chính sách kích thích kinh tế của Việt Nam so với xu hướng chung toàn cầu có thể làm giảm hiệu quả tác động của các chính sách kích thích kinh tế mà Việt Nam đang kỳ vọng.
Với những khó khăn kể trên, kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể đạt mức tăng trưởng từ 5,2% – 6,2% theo ba kịch bản.
Với kịch bản cơ sở, trong năm nay nền kinh tế sẽ đạt tăng trưởng GDP khoảng 5,7%.
Với kịch bản khả quan, chuỗi cung ứng từ Trung Quốc không gián đoạn do nước này thực hiện chính sách “Zero Covid”, nền kinh tế sẽ đạt tăng trưởng GDP khoảng 6,2%.
Kịch bản xấu nhất trong trường hợp chuỗi cung ứng sản xuất bị gián đoạn do chính sách “zero Covid” của Trung Quốc, nền kinh tế chỉ đạt tăng trưởng 5,2% trong năm nay.
Cũng tại Hội thảo, TS. Cấn Văn Lực – thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam nhận định, rủi ro lớn nhất của cả thế giới hiện nay là lạm phát, 60% doanh nghiệp Mỹ được khảo sát bày tỏ lo ngại rủi ro lạm phát.
Chỉ số lạm phát bình quân toàn cầu năm nay dự báo khoảng 6,2%, so với năm ngoái chỉ 4,2%, tăng kinh khủng, vì vậy hầu hết ngân hàng trung ương các nước buộc phải tăng lãi suất, hệ lụy rất lớn.
Tại Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực cho biết, lạm phát năm nay có thể tăng gấp đôi năm ngoái, khoảng trên 4%. Thế khó chính sách hiện nay là tăng lãi suất hay không tăng. Tăng lãi suất để siết dòng tiền sẽ kiểm soát được lạm phát, nhưng tăng lãi suất lại kiềm chế tăng trưởng chung của nền kinh tế do vốn cho doanh nghiệp bị siết.
Bên cạnh đó, TS. Cấn Văn Lực cũng chỉ ra rằng, một số lo ngại khác với kinh tế Việt Nam là chất lượng tăng trưởng hai năm vừa qua bị thay đổi, năng suất lao động rất thấp, chỉ tăng khoảng 4-4,5%, thấp hơn nhiều năm trước đó. Trong khi thị trường tài chính, thị trường bất động sản lại phát sinh quá nhiều vấn đề.
Các chuyên gia tại VEPR khuyến nghị, trong bối cảnh đại dịch còn có thể diễn biến phức tạp, việc chủ động kiểm soát dịch bệnh, giảm thiểu tác động tiêu cực, bảo vệ và hỗ trợ phục hồi kinh tế cần phải được ưu tiên.
Đồng thời, theo dõi chặt chẽ, có đánh giá đầy đủ và có các biện pháp ứng phó kịp thời với vấn đề nhập khẩu lạm phát, ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc với chính sách “Zero Covid”, xung đột Nga-Ukraine leo thang và các rủi ro khác có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ thực thi các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế. Trong đó, tiếp tục triển khai các giải pháp an sinh xã hội, các chính sách miễn, giảm thuế, phí,…đã đề xuất tại Chương trình phục hồi kinh tế – xã hội 2022-2023. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện điều hòa hiệu quả nguồn vốn đầu tư công từ nguồn vốn của Chương trình phục hồi và nguồn vốn từ Kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Ngoài ra, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các biện pháp giảm lãi suất và hỗ trợ lãi suất song cần gắn chặt với việc giám sát, kiểm soát chặt chẽ tình hình nợ xấu…
Về dài hạn, các chuyên gia nhận thấy, Việt Nam cần tiếp tục tái cấu trúc nền kinh tế, đẩy mạnh nâng cao tăng năng suất – cốt lõi của năng lực cạnh tranh và nâng cấp sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thương mại vẫn là động lực quan trọng để Việt Nam tăng trưởng trong thời gian tới. Do đó, cần tiếp tục tận dụng các Hiệp định Thương mại tự do (FTAs) Việt Nam đã ký kết, khai thác các thị trường là đối tác trong các FTAs.
Đối với đầu tư, khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng thì dòng vốn FDI sẽ chịu ảnh hưởng lớn của nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ những cơ hội và thách thức cũng như xu hướng của dòng FDI toàn cầu, để điều chỉnh chiến lược cho phù hợp.
Ngoài ra, bối cảnh mới có thể ảnh hưởng đến sự chuyển dịch ngành đầu tư của doanh nghiệp đa quốc gia theo hướng nghiêng về nhóm ngành phù hợp với điều kiện toàn cầu, đặc biệt là FDI trong ngành cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin. Vì thế, Việt Nam cần có các giải pháp chính sách để thu hút FDI trong những ngành như vậy.
VEPR cũng nhận thấy, Việt Nam cần tiếp tục có những cải cách đột phá về thể chế nhằm thúc đẩy hoàn thiện hơn nữa Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh bình đẳng, tiến tới nền kinh tế thị trường đầy đủ và tự do. Cần cải cách thể chế và hoàn thiện chính sách hỗ trợ phục hồi tăng trưởng của thành phần kinh tế tư nhân trong nước, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và đặc biệt là quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mô hình kinh doanh mới, sáng tạo, dựa trên ứng dụng nền tảng số và không gian số.
Gia Thành