Triển vọng kinh tế Việt nam năm 2021

0
140
Về thuận lợi, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục có đà tăng trưởng ấn tượng và khá vững chắc của cả quá trình đổi mới nói chung và cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Mặc dù năm 2020 ghi nhận những suy giảm mạnh về tăng trưởng và hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của tất cả các nước trên thế giới, song âm hưởng chung hội tụ trong các đánh giá và dự báo về kinh tế Việt Nam là rất tích cực.

Kinh tế Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới và phục hồi kinh tế nhanh hình chữ V. (Nguồn: Baodautu)

Động lực và triển vọng tích cực

Việt Nam  nằm trong số hiếm hoi các nước vẫn giữ được mức tăng trưởng dương (2,91% GDP), là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới và phục hồi kinh tế nhanh hình chữ V, với mức tăng trưởng dự báo từ hơn 6% tới 11,2% trong năm 2021… Nếu duy trì được đà tăng trưởng như 3 thập niên qua thì đến năm 2045 – kỷ niệm mốc lịch sử 100 năm Việt Nam độc lập (1945 – 2045), quy mô GDP của Việt Nam ước sẽ đạt khoảng 2.500 tỷ USD, còn thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 18.000 USD.

Động lực và triển vọng tích cực tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Việt Nam trước hết dựa trên sức chống chịu và đà phát triển năm 2020, với quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343 tỉ USD, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ 6 ASEAN. Lạm phát được kiểm soát vững chắc ở mức thấp; Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định. Tăng trưởng kinh tế từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỉ trọng thu nội địa, tăng tỉ trọng chi đầu tư phát triển và giảm tỉ trọng chi thường xuyên. Bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát dưới 5% GDP. Đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh, chiếm trên 79,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Thị trường xuất khẩu được đa dạng và ngày càng mở rộng; Nhiều doanh nghiệp hướng tới đột phá trong sản xuất công nghiệp và công nghệ, với những dự án đầy tham vọng trên hành trình vươn ra thị trường quốc tế,  tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Xuất siêu hàng hóa liên tục 5 năm và đạt trên 19,1 tỷ USD năm 2020. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư. Dự trữ ngoại hối tăng trên 90 tỉ USD…

Động lực tăng trưởng năm 2021 cũng được củng cố và mở rộng từ cải thiện môi trường đầu tư và triển khai hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 15 Hiệp định FTA (năm 2020 Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả EVFTA; tham gia ký Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và ký FTA Việt Nam – Anh), với 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện và tỷ lệ thuận với mức độ kiểm soát dịch Covd-19 thành công ở trên 230 quốc gia, vùng lãnh thổ hiện đang là đối tác kinh tế -thương mại và đầu tư. Việt Nam vẫn nằm trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư (năm 2019, đứng thứ 8, tăng 15 bậc; năng lực cạnh tranh xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018).

Đặc biệt, Việt Nam đã thực sự trưởng thành và nâng cao một bước vị trí, uy tín và năng lực đảm nhận”trọng trách kép” trong năm 2020, khi đồng thời là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và Chủ tịch ASEAN. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã và đang có những bước tiến lớn nhằm thúc đẩy vị thế là một nhà lãnh đạo khu vực…Đây là một đỉnh cao thắng lợi của đường lối đối ngoại đa phương của Đảng, tiếp thêm sinh khí mới để chúng ta tự tin và chủ động tiếp tục tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả.

Động lực tăng trưởng năm 2021 cũng được tiếp nối từ những thành tựu về du lich: Năm 2020, Việt Nam lần thứ hai liên tiếp đoạt giải “Điểm đến di sản hàng đầu thế giới 2020” của tổ chức World Travel Awards (WTA – Giải thưởng Du lịch Thế giới) đã khẳng định sức cuốn hút về bề dày văn hóa, lịch sử và thành công của du lịch Việt Nam…Trong loạt giải thưởng Việt Nam giành được ở châu Á, Việt Nam vinh dự đứng đầu ở 3 hạng mục: Điểm đến di sản, Điểm đến văn hóa và Điểm đến ẩm thực. Đây là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam được bình chọn ở cả 3 hạng mục trên. Ngoài ra, Việt Nam còn giành danh hiệu Điểm đến golf tốt nhất châu Á lần thứ 4 liên tiếp.Ngoài ra, Việt Nam còn đứng đầu 16 hạng mục khác ở các lĩnh vực lữ hành, hàng không, điểm đến, khách sạn, resort…

Sự thành công trong năm 2020 của gạo Việt Nam cả về chất lượng, sản lượng, năng suất và giá cả sẽ tạo đà cho năm 2021 để Việt Nam định hướng tái cơ cấu và phát triển một nền nông nghiệp ngày càng hiện đại và chuyên nghiệp, có sức cạnh trnah thị trường cao.

Động lực cho năm 2021 cũng tích hợp và tỏa sáng từ những thành tự phát triển bền vững của Việt Nam, với vị thế là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được 5 mục tiêu hành động của Liên hợp quốc về phát triển bền vững 2020. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn.

Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2020 ước khoảng 4,7%, giảm 1 điểm phần trăm so với năm 2019, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về giảm nghèo. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam là 0,704, lần đầu tiên đưa Việt Nam vào nhóm các nước phát triển con người cao và xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong giai đoạn 1990-2019, giá trị HDI của Việt Nam đã tăng gần 46%, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới, trong khi vẫn còn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp…

Động lực cho phát triển năm 2021 còn được khẳng định từ sự cải thiện Chỉ số quyền lực Châu Á (Asia Power Index) năm 2020 do Viện Lowy công bố ngày 19-10-2020; theo đó, Việt Nam tiếp tục tăng một bậc, từ 13 lên 12 trong số 26 quốc gia và vùng lãnh thổ, vượt lên trên cả New Zealand. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có sự tăng thứ hạng mạnh nhất với 1,3 điểm. Trong đó, chỉ số ảnh hưởng ngoại giao tăng 3 bậc do xử lý tốt đại dịch Covid-19. Bên cạnh đó các chỉ số về cạnh tranh kinh tế và mạng lưới quốc phòng của Việt Nam cũng đều gia tăng.

Giá trị thương hiệu Việt Nam 

Đặc biệt, động lực và kỳ vọng mới cho năm 2021 được gia tăng cùng với sự thăng hạng vượt trội về giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam: Theo Brand Finance (Anh), hãng chuyên định giá thương hiệu quốc tế, trong năm 2020, giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 319 tỉ USD, tăng 29% so với năm 2019 – mức tăng nhanh nhất thế giới. Nhờ đó, giá trị thương hiệu Việt Nam đã tăng chín bậc so với cùng kỳ và đạt thứ hạng 33 trên thế giới. Giá trị thương hiệu Việt Nam tăng mạnh nhờ vào việc phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả. Việt Nam nổi lên trở thành điểm đến hàng đầu tại khu vực Đông Nam Á về sản xuất và nơi hấp dẫn các tập đoàn đa quốc gia, nhất là từ Mỹ đặt nhà máy sản xuất để tái định vị nguồn cung trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung chưa hạ nhiệt. Một thương hiệu quốc gia mạnh sẽ hấp dẫn rất lớn với đầu tư, gia tăng thêm giá trị xuất khẩu và giúp thu hút khách du lịch, các chuyên gia, giới kinh doanh. Sự trỗi lên của Việt Nam được thiết lập từ chính giá trị của Việt Nam.

Đồng thời, động lực và kỳ vọng cho năm 2021 còn được cộng hưởng bởi xu hướng đẩy mạnh chuyển đổi số trong các tập đoàn và doanh nghiệp: Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2020 vừa được Liên hợp quốc công bố, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 86 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, tăng 2 bậc so với năm 2018, trong đó chỉ số hạ tầng viễn thông tăng mạnh 31 bậc. Trên thực tế, đến nay, EVN đã cung cấp 100% các dịch điện trực tuyến mức độ 4 lên Cổng DVCQG. Số lượng yêu cầu các dịch vụ điện qua Cổng QVCQG đến ngày 30/11/2020 là gần nửa triệu yêu cầu, lượng hồ sơ đồng bộ lên Cổng là gần 1,5 triệu hồ sơ. EVN đã thực hiện khai báo danh mục 100% các dịch vụ điện trực tuyến mức độ 4 đã được tích hợp với Cổng DVCQG lên trên hệ thống cơ sở dữ liệu dịch vụ công quốc gia tại website do VPCP cung cấp, các dịch vụ điện của EVN đều được công bố trên Cổng DVCQG…

Theo báo cáo về chỉ số tích hợp phát triển bưu chính năm 2019 do Liên minh Bưu chính thế giới về công bố xếp hạng, Việt Nam xếp hạng thứ 45/172 quốc gia, tăng 5 bậc so với năm 2018.  Việt Nam đã có sự thăng tiến mạnh mẽ trong bảng xếp hạng về an toàn, an ninh mạng toàn cầu do Liên minh viễn thông quốc tế ITU đánh giá, từ thứ hạng 100 năm 2017 lên thứ hạng 50 năm 2019. Việt Nam cũng được đánh giá là nước có số lượng mã độc di động thấp thứ 2 ở Đông Nam Á, chỉ sau Singapore.

TBT,Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Chưa bao giời Việt Nam có được vị thế và cơ đồ vững chắc như hiện nay…Những nền tảng trên cho phép chúng ta tự tin về năm 2021, Việt Nam sẽ tiếp tục nổi lên như một điểm sáng đáng ghi nhận và tự hào…Những thành công đó không phải là ngẫu nhiên, mà là kết quả tổng hợp và thước đo hiệu quả khả năng tự chủ, tự cường, phản ứng chính sách và phản ứng thị trường đồng bộ cùng một quá trình phấn đấu lâu dài, không ngừng nghỉ của Đảng, Chính phủ và Nhà nước, cũng như toàn thể cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân Việt Nam; nhất  là từ sự cộng hưởng những thành tựu và động lực tăng trưởng kinh tế từ năm 2019; sức chống chịu và thành công trong việc kiểm soát sự lây lan của dịch Covid-19; hiệu quả triển khai các biện pháp tài chính – tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; đẩy nhanh giải ngân đầu tư công và tiếp tục những cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh; tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu; thúc đẩy tái cơ cấu về tổ chức và công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình hướng tới tăng trưởng nhanh, bền vững trong hoạt động của doanh nghiệp; đa dạng hóa chuỗi cung ứng và hình thành các chuỗi cung ứng và liên kết kinh tế mới. Đồng thời, Việt Nam cũng đang và sẽ được hưởng lợi từ việc tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương; từ sự dịch chuyển và tái định vị các các chuỗi cung ứng khu vực và quốc tế sang những quốc gia có chi phí thấp và an toàn hơn.

TS. Nguyễn Minh Phong

BOX

Theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021: Việt Nam phấn đấu GDP tăng khoảng 6%. GDP bình quân đầu người khoảng 3.700 USD. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%. Tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 45-47%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội khoảng 4,8%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 66%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ khoảng 25,5%. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế khoảng 91%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm 1-1,5 điểm phần trăm. Có trên 90% dân cư khu vực thành thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị trên 87%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường khoảng 91%. Tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here