Theo đánh giá của Bộ Công Thương, sau 4 năm thực thi, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đang là động lực lớn thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam. Nếu như năm 2019, xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 35 tỷ Euro, thì đến năm 2023 con số này đã lên tới 48 tỷ Euro. Nhiều ngành hàng ghi nhận tăng trưởng mạnh như điện tử, dệt may, giày dép, nông thủy sản…
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 8 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đạt trên 34,14 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2023.
NHIỀU QUY ĐỊNH KHẮT KHE MỚI XUẤT HIỆN
Mặc dù đạt được những kết quả tích cực, song theo ông Đỗ Hữu Hưng, Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ, Bộ Công Thương, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU hiện đang đứng trước những thách thức mới đến từ các “chính sách xanh” của EU với những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và tiêu dùng theo hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn. Trong đó, Kế hoạch nền kinh tế tuần hoàn là một phần của Thỏa thuận xanh châu Âu. Thỏa thuận xanh châu Âu như một mục tiêu, một chiến lược của EU để giúp khối này giảm phát thải ròng bằng 0 sớm nhất có thể vào năm 2050.
Để thực hiện được chiến lược và mục tiêu này, EU sẽ đưa ra hàng loạt các quy định, trong đó có Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn (CEAP). Kế hoạch này sẽ tác động trực tiếp đến 7 nhóm lĩnh vực xuất khẩu chính của Việt Nam, cụ thể là: thiết bị điện tử; công nghệ thông tin; nhóm về pin; nhóm về bao bì; nhóm về nhựa; dệt may và da giày.
Trong đó, quy định ISPR (quy định liên quan đến thiết kế sinh thái, sản phẩm bền vững) đã có hiệu lực từ tháng 7/2024. ISPR ảnh hưởng đến một số lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong đó có dệt may và giày dép, các sản phẩm nhựa và bao bì. ISPR có quy định liên quan đến việc ngăn chặn, hạn chế tiêu hủy các sản phẩm dệt may, yêu cầu các sản phẩm phải có hộ chiếu kỹ thuật số DPP.
“Những quy định này rất phức tạp, ngay cả bản thân chúng tôi nghiên cứu cũng thấy rất khó”, ông Hưng chia sẻ. Đồng thời, ông Hưng cho biết sản phẩm không đáp ứng được những tiêu chuẩn của EU như liên quan đến hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số… sẽ không thể thâm nhập được vào thị trường EU, bởi hải quan EU sẽ không cho thông quan.
Muốn đáp ứng được những quy định này, các doanh nghiệp phải đầu tư công nghệ, phải thay đổi quy trình sản xuất, quy trình quản lý; chi phí đầu tư tăng có thể khiến chi phí, giá thành sản phẩm tăng,… điều này sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đồng quan điểm, TS.Mai Thanh Dung, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho rằng việc chuyển đổi sang sản xuất xanh, tuần hoàn đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chi phí tốn kém. Với doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh thì việc này có thể không gây ra khó khăn, nhưng với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, do nguồn lực tài chính hạn chế nên khó có thể thực hiện ngay hoặc thực hiện về cơ bản những giải pháp theo hướng kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, khó khăn liên quan đến tư duy, suy nghĩ trong nếp sản xuất của doanh nghiệp. “Nhiều doanh nghiệp đôi khi hay bỏ những công đoạn này, bỏ những công đoạn kia để tiết giảm các chi phí nhân công… mà chưa thiết kế quy trình sản xuất một cách bài bản, chi tiết cụ thể, từ khâu đầu đến khâu cuối trong chu trình sản xuất”, TS.Mai Thanh Dung nêu thực tế.
Hơn nữa, chúng ta còn rất nhiều những doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu và tư duy cũng chưa được hoàn hảo. Như vậy, để bắt nhập vào phát triển bền vững đôi khi chậm hơn so với những người đi trước, những người có năng lực, tư duy sáng hơn, tốt hơn.
TẠO CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH RÕ RÀNG HƠN CHO DOANH NGHIỆP
Để đảm bảo các tiêu chuẩn từ các thỏa thuận xanh châu Âu nhằm giữ vững thị trường EU và khai thác hiệu quả Hiệp định EVFTA, ông Đỗ Hữu Hưng cho rằng trước hết các doanh nghiệp cần phải tự trang bị cho mình những thông tin đầy đủ, đúng về các yêu cầu, quy định mà thị trường EU đặt ra.
“Hiện giờ có rất nhiều nguồn thông tin, có những nguồn thông tin không chính xác. Ví dụ như ngoài CEAP, EU cũng ban hành một loạt các quy định, trong đó có Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Nhiều doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực nông sản hoặc thực phẩm nói cho biết họ e ngại CBAM sẽ ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp của họ, nhưng thực tế không đúng như vậy, vì CBAM hiện giờ họ mới chỉ áp dụng đến một số lĩnh vực phát thải lớn trong lĩnh vực công nghiệp như xi măng, sắt, thép…”, ông Hưng chia sẻ.
Do đó, đại diện Bộ Công Thương khuyến nghị các doanh nghiệp thường xuyên phải cập nhật những thông tin, vì đây là những quy định chính sách của EU, có thể họ sẽ có những giai đoạn thí điểm và sau đó họ có thể thay đổi, chứ không phải cố định. Quy định đó hiện nay là thế này, nhưng sau họ có thể mở rộng ra những lĩnh vực khác nên các doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình những thông tin đúng và chính xác, đầy đủ.
“Để thâm nhập được thị trường EU, các doanh nghiệp cần phải có một chiến lược cụ thể, chi tiết. Các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Công Thương hay Bộ Tài nguyên và Môi trường có thể đưa ra những khuyến nghị chung, chính sách chung, chiến lược chung, nhưng chỉ các doanh nghiệp mới hiểu được họ có những năng lực sản xuất như thế nào, họ có những nhóm sản phẩm gì, phù hợp với xu hướng tiêu dùng của thị trường bây giờ hay không? Chính vì vậy mà họ sẽ phải vạch ra được chiến lược cụ thể”, đại diện Bộ Công Thương nhấn mạnh.
Nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày lớn của Việt Nam đã có những chiến lược rất cụ thể, bài bản hoặc có bộ phận tư vấn pháp lý, chuyên gia phân tích về thị trường, về những chính sách của châu Âu, song, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô sản xuất cũng vừa phải, nguồn lực về tài chính cũng rất hạn chế,… bởi vậy việc tự họ nghiên cứu và xây dựng được một chiến lược cũng không đơn giản.
Đại diện Bộ Công Thương cho rằng trong tình hình mới, doanh nghiệp cần tìm đến các cơ quan, tổ chức trong nước hay quốc tế như Bộ Công Thương, Phái đoàn Liên minh châu Âu, EuroCham… để hỗ trợ các doanh nghiệp đưa ra chiến lược cụ thể để thâm nhập vào được thị trường châu Âu.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty May Hưng Yên, cho rằng ngành dệt may muốn xuất khẩu được vào châu Âu phải đáp ứng được chứng nhận xuất xứ. Như vậy, không có con đường nào khác là phải có nguồn nguyên liệu tại chỗ. Nhưng cái khó dai dẳng của ngành hiện nay là nguyên liệu tại chỗ, đặc biệt là vải của chúng ta quá ít, không đủ các tiêu chuẩn để cung ứng, hầu hết là nhập từ Trung Quốc đến 45% và các thị trường khác đến khoảng trên 10%, trong khi những thị trường này đều không có FTA với EU.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nước ngoài rất muốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng vấn đề xử lý nước thải quá đắt. Vì vậy, ông Dương mong muốn Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về vấn đề này, nhất là với các sở, ngành, vì hiện nay các sở rất ngại nhận dự án nhuộm vào đầu tư. Bên cạnh đó, đề xuất Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho xây dựng một số vùng hay các khu công nghiệp lớn mà ở đó Nhà nước đứng ra đầu tư vào khâu xử lý nước thải nhằm giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư. Khi đó, nguồn nguyên liệu của chúng ta sẵn sàng, tận dụng được EVFTA để doanh nghiệp dệt may có thể hưởng được thuế suất bằng 0.
Mặt khác, lãnh đạo doanh nghiệp dệt may của Hưng Yên đưa ra kiến nghị cần hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chẳng hạn như về nguồn vốn có ưu đãi vay với lãi suất hợp lý để doanh nghiệp có thể đầu tư vào công nghệ, sử dụng robot thay thế cho người lao động trong các khâu đơn giản…
Tiếp thu các đề xuất và kiến nghị từ phía doanh nghiệp, TS.Mai Thanh Dung cho rằng Nhà nước nên tạo ra cơ chế, chính sách rõ hơn để các doanh nghiệp thực hiện những biện pháp về kinh tế tuần hoàn. Bộ Công Thương cần đưa ra những tiêu chuẩn để doanh nghiệp tham khảo, áp dụng; đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn.
Được biết, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng tiêu chí môi trường, xác nhận đối với các dự án được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh, đây là các văn bản rất quan trọng để các doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn từ các ngân hàng…