Thị trường Tài chính, Tiền tệ trong bối cảnh CPTPP

0
146
Tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao.
Tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao.

Ngày 8/3/2018 tại Santiago, Chile, 11 nước thành viên (trừ Mỹ) của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã ký kết Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP).

CPTPP tức TPP-11 được coi là Hiệp định thương mại tự do lớn thứ ba thế giới hiện nay; CPTPP với tổng dân số 500 triệu người, tổng GDP vượt trên 10.000 tỉ USD, chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu và khoảng 14% tổng thương mại thế giới (so với TPP gồm 800 triệu dân, 40% GDP và hơn 30% thương mại toàn cầu). Kế thừa tinh thần TPP, CPTPP là Hiệp định có những tiêu chuẩn cao, tham vọng, toàn diện và cân bằng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, và sức cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm đói nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động, bảo vệ môi trường.

CPTPP là kết quả sự nỗ lực vượt qua chính mình của 11 thành viên TPP, khẳng định xu hướng tiếp tục của tự do hóa thương mại đầu tư quốc tế sau khi Mỹ tuyên bố rút lui khỏi TPP và gia tăng các động thái bảo hộ, gây nhiều quan ngại và sự phản đối trên thế giới và ngay trong lòng nước Mỹ. CPTPP gửi đi thông điệp mạnh mẽ về sự cấp thiết và quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, tạo thuận lợi cho phát triển thương mại và tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. CPTPP khi có hiệu lực sẽ thúc đẩy xu hướng hợp tác trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương; đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia.

Mục tiêu cuối cùng là mở cửa thương mại và hội nhập cho toàn khu vực. Việc ký kết, thực thi và khai thác CPTPP, cùng với các FTA khác, được kỳ vọng sẽ kéo theo những chuyển dịch mới cả về kinh tế và địa chính trị khu vực và thế giới…!

Cơ hội mới từ CPTPP đối với ngành tài chính

Với 20 điều khoản tạm hoãn so với TPP (chủ yếu ở nhóm nghĩa vụ được tạm hoãn thực thi do Mỹ đàm phán) và chỉ được kích hoạt lại về sau với sự đồng ý của 11 nước, có thể thấy CPTPP kế thừa gần như toàn bộ nội dung của TPP.

Cũng như trong TPP, các cam kết thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính của CPTPP hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở các nước thành viên, trong đó có Việt Nam gồm: (i) Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tư; (iii) Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định.

So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới như: (i) mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; (ii) dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng; (iii) mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới.

Tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao. Theo đó, một nhà cung cấp dịch vụ của một nước CPTPP có thể cung cấp một dịch vụ tài chính mới tại thị trường của nước CPTPP khác nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Các nước thành viên của TPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số quy tắc trong hai phụ lục đính kèm theo TPP phù hợp với điều kiện của từng nước: (1) các biện pháp hiện hành quy định Bên tham gia phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lại cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này, và (2) các biện pháp và chính sách quy định Bên tham gia có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai.

Các nước TPP được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình, bao gồm những quy định ngoại lệ mà các quốc gia thành viên xem xét một cách thận trọng và những quy định ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ hay các chính sách khác.

Việt Nam cũng như các nước được áp dụng các ngoại lệ cần thiết, gồm các biện pháp thận trọng bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm đảm bảo môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Tuy nhiên, các nước thành viên phải tuân thủ nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” trong việc điều hành chính sách đối với các ngành dịch vụ, theo đó nếu Việt Nam điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp luật trong nước theo hướng tự do hóa hơn, thông thoáng hơn so với mức cam kết ban đầu thì sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc, không được ban hành chính sách quay trở lại mức cam kết ban đầu.

Thực thi CPTPP, trong đó có các cam kết về dịch vụ tài chính nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó thu hút, thúc đẩy các ngân hàng cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và không phân biệt đối xử. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được đảm bảo khi tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường các thành viên khác; giúp cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hình thành và thấm nhuần văn hóa cạnh tranh, nâng cao nhận thức về cạnh tranh lành mạnh và có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tạo điều kiện nâng cao trình độ và năng lực của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam thông qua các cơ chế về hợp tác, trao đổi thông tin, tham vấn về những vấn đề liên quan đến cạnh tranh giữa các nước thành viên trong quá trình thực thi cam kết.

Áp lực, thách thức không nhỏ

Tuy nhiên, thực thi CPTPP cũng đặt ra thách thức đối mặt với nhiều vụ việc cạnh tranh có tính chất phức tạp, hành vi phản cạnh tranh đa dạng và tinh vi trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng trong thời gian tới. Đồng thời, thách thức cũng đến từ những hạn chế của Việt Nam, như: Thị trường vốn có quy mô còn quá nhỏ, thanh khoản yếu, thiếu hấp dẫn, chưa đủ khả năng thu hút mạnh các dòng vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các dòng vốn lớn; Quy mô vốn của thị trường tiền tệ còn chưa tương xứng, nhất là quy mô vốn của hệ thống NHTM còn nhỏ; Quy mô thị trường bảo hiểm còn ở mức khá nhỏ, tỉ lệ doanh thu phí trên GDP mới chỉ đạt mức xấp xỉ 2% so với mức trung bình 3,2% trong khu vực ASEAN và 6,5% trên toàn thế giới; Tồn tại tình trạng mất cân đối giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ dễ dẫn đến nguy cơ mất thanh khoản của ngân hàng; Nợ xấu và xử lý nợ xấu còn nhiều bất cậ; Lòng tin vào quản trị và chất lượng dịch vụ hệ thống NHTM còn thấp; Mất cân đối về cấu trúc giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu; Mất cân đối giữa hoạt động tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng; Mất cân đối giữa thị trường vốn ngắn hạn và dài hạn; Bất hợp lý về cơ cấu giữa tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư; Trình độ thị trường còn ở mức thấp, ý thức tuân thủ luật pháp còn hạn chế, chế tài xử lý vi phạm chưa có tính răn đe cao. Các tác động sâu của CPTPP đến nền kinh tế sẽ tùy thuộc vào sự chuẩn bị và khả  năng khai thác tính hai mặt trong quá trình triển khai Hiệp định này của Việt Nam…

Đặc biệt, Việc cho phép các hoạt động của các tổ chức tái bảo hiểm tiền gửi nước ngoài tại Việt Nam theo tinh thần của Hiệp định CPTPP sẽ mang lại nhiều cơ hội và thách thức mới cho vấn đề bảo hiểm tiền gửi của hệ thống ngân hàng Việt Nam, theo đó:

Một mặt, sự mở rộng cửa cho các tổ chức tái bảo hiểm ngoại này sẽ làm tăng cơ hội lựa chọn người cung ứng dịch vụ bảo hiểm tiền gửi có chất lượng cho các NHTM và người dân gửi tiền; tăng khả năng bảo vệ quyền lợi và sự ổn định chung, chống sốc đổ vỡ hệ thống, duy trì lòng tin trên thị trường. Đến lượt mình, điều này sẽ giúp tăng huy động tiền gửi với quy mô lớn và thời hạn gửi dài hơn; giảm thiểu tình trạng rút tiền ồ ạt hoặc gửi tiền ngắn hạn kiểu phòng ngừa rủi ro của người gửi tiền…

Mặt khác, sự cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh mẽ hơn cả về phía cơ quan bảo hiểm tiền gửi, cũng như về phía các ngân hàng thương mại-người mua bảo hiểm tiền gửi.

Đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, sự hiện diện của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi ngoại này sẽ tạo áp lực cạnh tranh trực tiếp về thị phần với công ty bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Cụ thể, sẽ có một số khách hàng truyền thống của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chuyển sang mua bảo hiểm tiền gửi của công ty bảo hiểm tiền gửi ngoại, do điều kiện bảo hiểm và mức bảo hiểm, cũng như khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm tiền gửi ngoại. Khi đó, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ phải cân nhắc tăng mức bảo hiểm và cải thiện điều kiện, chất lượng dịch vụ của mình theo hướng thị trường hơn.

Đối với các ngân hàng thương mại, sự cạnh tranh giữ chân người gửi tiền bằng nâng mức chi trả bảo hiểm và lòng tin vào khả năng bảo vệ người gửi tiền cũng gia tăng. Khách hàng – người gửi tiền sẽ có động lực và xu hướng chuyển sang gửi tiền nhiều và dài hạn hơn vào những ngân hàng nào có cam kết mua bảo hiểm tiền gửi cao hơn. Rõ ràng, việc một ngân hàng đưa ra cam kết mua bảo hiểm tiền gửi lớn hơn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi lớn hơn 75 triệu đồng theo quy định của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện hành cũng sẽ có lợi thế thu hút và chinh phục lòng tin khách hàng hơn so với ngân hàng khác có mức cam kết thấp hơn, dù lãi suất huy động cao hơn. Điều anfy đồng nghĩa với sự sụt giảm thị phần và khả năng huy động vốn của ngân hàng nào có mức chi trả bảo hiểm tiền gửi thấp hơn.

Đồng thời, khi mua bảo hiểm tiền gửi cao, các ngân hàng sẽ phải chi trả tiền phí nhiều hơn, tuân thủ nhiều quy định báo cáo và minh bạch tài chính nghiệp vụ ngặt nghèo hơn với công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm tiền gửi. Thậm chí, người gửi tiền cũng có thể sẽ bị giảm lãi suất tiền gửi, còn doanh nghiệp lại phải tăng lãi suất nhận vay tín dụng để bù lại phần chi phí gia tăng của ngân hàng cho mua bảo hiểm tiền gửi theo mức cao tương ứng đó. Cuộc chiến về chia sẻ lợi ích, lợi nhuận và lòng tin gắn với mức phí mua vvaf mức chi trả bảo hiểm tiền gửi sẽ gia tăng và sẽ tạo ra nhiều động thái mới trong cơ cấu và hướng chuyển dịch các dòng tín dụng và ngay cả hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Hạn mức chi trả BHTG của Việt Nam đang thấp nhất về số tiền tuyệt đối và hầu hết các tiêu chí khác, như hạn mức/GDP bình quân đầu người, tỷ lệ phần trăm người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ, tỷ lệ phần trăm giá trị tiền gửi được bảo vệ toàn bộ. Theo số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nếu quy ra USD, Thái Lan đang có mức chi trả cho người gửi tiền hơn 709.220 USD, Indonesia 153.257 USD, Malaysia 59.666 USD, Singapore 35.971 USD, Philippines 10.346 USD và Mỹ là 250.000 USD; riêng Anh, Đức và Nhật thực hiểm bảo hiểm đủ 100% tiền gửi dù bất cứ ngân hàng nào của người gửi tiền bị phá sản; còn Việt Nam chỉ khoảng 3.300 USD. Mức BHTG hiện nay chỉ 75 triệu đồng là quá tháp, có thể tiềm ẩn nguy cơ người gửi tiền cá nhân rút tiền hàng loạt tại nhiều TCTD. Từ đó có thể dẫn đến đổ vỡ dây chuyền hệ thống các TCTD khác đang là kênh cung ứng tới 90% nguồn vốn sản xuất – kinh doanh, tiêu dùng, đầu tư…khiến cho nền kinh tế đối mặt nguy cơ suy thoái, tăng trưởng thụt lùi, lạm phát và thất nghiệp tăng cao. Hơn nữa, khi ngân hàng bị phá sản mà không được chi trả đầy đủ tiền gửi, người gửi tiền có thể tụ tập, khiếu kiện đông người gây mất trật tự, an toàn xã hội…

Một số giải pháp thích ứng cần có

Thứ nhất, đa dạng hóa và nâng cao mức chi trả bảo hiểm tiền gửi

Việc chủ động nhận diện cơ hội và thách thức mới, chủ động đa dạng hóa và tái cơ cấu, nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm tiền gửi theo hướng tăng thị trường hơn và hài hòa lợi ích, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền sẽ ngày càng trở thành nhiệm vụ quan trọng và gia tăng áp lực đối với cả cơ quan bảo hiểm tiền gừi và các ngân hàng thương mại.

Trước mắt, cần nghiên cứu điều chỉnh quy định của luật Tổ chức tín dụng (TCTD) hiện hành, theo đó, thay vì khách hàng sẽ được Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) trả 75 triệu đồng/người/TCTD nếu ngân hàng nơi gửi tiền phá sản, cần đưa ra các mức chi trả vượt mức cho từng khách hàng, tùy từng thời điểm và điều kiện gửi tiền, cũng như phí mua bảo hiểm tiền gửi. Hạn mức chi trả vượt mức được tính toán, quyết định trong thời kỳ, không phải là chi trả toàn bộ trong mọi trường hợp

Ngoài ra, cần xem xét kịch bản Chính phủ quyết định mức cho vay đặc biệt, lãi suất cho vay đặc biệt của NHNN đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Qua đó, có căn cứ chi trả số tiền gửi của cá nhân còn lại sau khi đã được tổ chức BHTG chi trả theo quy định và cơ chế xử lý từ ngân sách nhà nước đối với số tiền cho vay đặc biệt không thu hồi được. Điều này là rất cần thiết để tạo lập cơ sở pháp lý cho việc áp dụng biện pháp khi cần thiết và tùy thuộc vào tình hình ngân sách theo từng thời kỳ và theo mức độ tác động của từng trường hợp phá sản cụ thể.

Thứ hai, tăng cường xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các TCTD, cải thiện năng lực, sự lành mạnh và lòng tin vào hoạt động của các ngân hàng

Đến cuối tháng 3/2018, tỷ lệ nợ xấu còn 2,18%…Năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các TCTD từng bước cải thiện; số lượng các TCTD có quy mô nhỏ, hoạt động yếu kém giảm dần; sở hữu chéo, đầu tư chéo được xử lý một bước quan trọng; khung pháp lý về tiền tệ và ngân hàng được tập trung hoàn thiện, hình thành đồng bộ hơn các chuẩn mực, thiết chế an toàn. Năm 2017 các TCTD đã nỗ lực tự xử lý nợ xấu với tốc độ tăng hơn 40% so với năm 2016. Nhờ đó, khả năng sinh lời của hệ thống TCTD tăng lên, tạo điều kiện để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, giảm chi phí vốn của nền kinh tế. Tuy nhiên, số dư dự phòng rủi ro tín dụng của hệ thống TCTD tăng mạnh so với cuối năm 2016 và kết quả xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD chưa được như kỳ vọng do các TCTD vừa thực hiện trách nhiệm kênh chủ yếu cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, vừa tiếp tục tái cơ cấu và xử lý nợ xấu trong bối cảnh nền kinh tế chung chưa hết khó khăn, cũng như do năng lực quản trị điều hành của một bộ phận các TCTD còn hạn chế

Rủi ro ngân hàng thường phức tạp, có độ trễ và hệ quả lớn. Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu là một yêu cầu bức thiết và cũng là giải pháp quan trọng dài hạn để hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng có thể tăng cường hoạt động và phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững, góp phần đắc lực trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Để thực hiện mục tiêu này, NHNN cần điều hành chính sách tiền tệ chủ động, thận trọng, linh hoạt, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với diễn biến thị trường, tình hình vốn khả dụng của TCTD; điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và thị trường ngoại hối; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, để hỗ trợ ổn định thị trường tiền tệ ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý…

Trước mắt, NHNN cần chỉ đạo toàn ngành tập trung triển khai Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng; Chỉ thị 32/CT-TTg và Chỉ thị 06/CT-NHNN về thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 này. Theo đó,  thành lập và duy trì hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống TCTD và Ban chỉ đạo cơ cấu lại các quỹ tín dụng nhân dân gắn với xử lý nợ xấu tại NHNN chi nhánh tại các địa phương; tiếp tục hoàn thiện các quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC, về thẩm định giá khởi điểm và xác định giá thị trường của khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo; phối hợp các Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Tư pháp ban hành văn bản thực hiện quyền và cơ chế hiệu lực thực tế để thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, quy trình thực hiện bán đấu tài sản TCTD đã thu giữ; cũng như thủ tục rút gọn trong quy trình tố tụng để giải quyết tranh chấp theo Nghị quyết 42/2017/QH14. Theo Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), từ ngày 15/8/2017 (thời điểm Nghị quyết 42/2017/QH14 có hiệu lực) đến cuối tháng 3/2018, VAMC cùng với các TCTD đã thu hồi được khoảng 37 nghìn tỷ đồng nợ xấu, gần bằng một nửa so với 3 năm trở lại đây; toàn hệ thống đã xử lý được 100, 5 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội. Tổng nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng chiếm 2,18% tổng dư nợ. Những con số đó đã phần nào cho thấy hiệu quả tích cực và nỗ lực xử lý nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết 42/2017/QH14.

Đồng thời, cùng với cụ thể hóa lộ trình và yêu cầu nâng cao chuẩn mực trong quản trị rủi ro và tỷ lệ an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel II, NHNN cần tăng cường thanh tra, giám sát phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật (nhất là về tỷ lệ sở hữu, quy mô vốn và cơ cấu tín dụng), tập trung vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, dễ phát sinh sai phạm và kinh doanh ngân hàng; phát hiện, cảnh báo sớm và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, kể cả vi phạm về trách nhiệm giám sát, kiên quyết xử lý dứt điểm vấn đề sở hữu chéo, vi phạm giới hạn về sở hữu cổ phiếu dẫn tới chi phối ngân hàng của cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn, lợi ích nhóm trong các tổ chức tín dụng cổ phần; Tiếp tục xử lý TCTD yếu kém, đặc biệt là 3 NHTM mua lại và các Quỹ tín dụng nhân dân yếu kém theo nguyên tắc thị trường và thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; xúc tiến cơ cấu lại các NHTM Nhà nước nhằm duy trì vai trò là lực lượng chủ lực, chủ đạo về quy mô, thị phần, khả năng điều tiết thị trường, bảo đảm giữ ổn định chung hoạt động lành mạnh của toàn hệ thống TCTD.

Bên cạnh đó, NHNN cũng cần tạo áp lực thúc đẩy và hỗ trợ các TCTD chủ động tăng năng lực và chất lượng thẩm định tín dụng, kiểm soát và kiểm toán nội bộ và quản trị rủi ro theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế (nhất là rủi ro đạo đức, rủi ro thị trường và rủi ro công nghệ, bảo đảm an ninh mạng); xây dựng đội ngũ quản lý đáp ứng yêu cầu cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cao, nhằm phòng ngừa, hạn chế và kiểm soát nợ xấu phát sinh trong hoạt động của TCTD ngân hàng, đặc biệt trong cho vay không đúng quy định và cho vay đầu tư, kinh doanh các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, như kinh doanh bất động sản, dự án BT, BOT, cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và tăng cường năng lực tài chính, mở rộng quy mô, màng lưới, phát triển các dịch vụ thanh toán, dịch vụ phi tín dụng khác…

Thứ ba, tăng cường thông tin và bảo đảm an ninh thông tin trên thị trường tài chính tiền tệ.

Nhận diện, ngăn chặn các tin đồn thất thiệt, bảo đảm chất lượng thông tin gắn với an ninh tài chính-tiền tệ các cấp độ vĩ mô và vi mô là trách nhiệm chung của các cơ quan chức năng, tổ chức, cơ quan truyền thông, cộng đồng xã hội và cá nhân có liên quan.

Trước hết, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến bảo đảm an ninh thông tin; trước hết là các Nghị định và Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật An ninh Quốc gia và Luật An toàn thông tin mạng về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng…để ngày càng bao phủ hết và cập nhật những diễn biến ngày càng phức tạp đe dọa an ninh mạng và an toàn thông tin quốc gia. Nâng cao năng lực, hiệu lực, trách nhiệm và sự phối hợp thông tin và quản lý thông tin gắn với các hoạt động tài chính-tiền tệ. Đồng thời, tăng cường phối hợp, thực hiện tốt quy chế phát ngôn và người phát ngôn, cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho báo chí và bảo đảm trách nhiệm giải trình của người đứng đầu theo luật định trách nhiệm; Đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi và tăng cường xử phạt đối với những hành vi cung cấp, lưu trữ, sử dụng thông tin nhằm xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín và làm tổn hại danh dự, nhân phẩm và những lợi ích kinh tế-tài chính- tiền tệ chính đáng của nhà nước, tổ chức, người khác…

Đặc biệt, cần thực hiện cung cấp định kỳ, công khai đầy đủ và cập nhật hệ thống các thông tin chính thức về tài chính-tiền tệ theo quy định nhà nước và yêu cầu hội nhập, với các chỉ tiêu quan trọng, được phân cấp quản lý theo ngành, cấp độ, địa phương, Các thông tin chung và các thông tin về tài chính của các ngân hàng và tổ chức tín dụng được quy định trong báo cáo gửi các cơ quan nhà nước theo quy định trong chế độ báo cáo, điều tra của nhà nước và được công khai khi niêm yết trên thị trường chứng khoán; Thông tin về phân loại ngân hàng thương mại, cơ cấu, kỳ hạn, hệ số an toàn, tính thanh khoản…

Về tổng thể, cần đẩy mạnh các hoạt động xây dựng và thực thi, kiểm tra, đánh giá toàn diện các chuẩn quốc gia và chứng nhận hợp chuẩn về bảo đảm an ninh, hệ thống các quy định, quy trình bảo đảm an ninh TC-TT nói chung, an ninh thông tin trên không gian mạng và truyền thông quốc gia nói riêng; tăng cường trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng rà soát, phát hiện,  phòng ngừa sự cố, khắc phục điểm yếu, lỗ hổng bảo mật của hệ thống thông tin TC-TT quốc gia và công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin tại các cơ quan, tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ, đầu tư; phòng ngừa và khắc phục nguy cơ mất an ninh, an toàn, bảo vệ bí mật nhà nước và cơ quan, bảo đảm an ninh không gian mạng quốc gia.

Bản thân ngân hàng và các tổ chức tài chính-tiền tệ cũng cần coi trọng công tác truyền thông, chủ động cung cấp thông tin trên các cổng thông tin nội bộ và cho báo chí, không chỉ các thông tin tốt, mà các thông tin bất lợi cũng cần được minh bạch và công khai theo các mức độ khác nhau, tránh sự đồn đoán gây ra những hiểu lầm hoặc những cách hiểu ngược trong truyền thông xã hội và công chúng.

Các ngân hàng cũng cần đổi mới và hiện đại hóa cơ chế kiểm soát rủi ro và giám sát cho phù hợp; chủ động nắm bắt, thích nghi và thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới, định hình lại mô hình kinh doanh và quản trị; nâng cấp trung tâm dữ liệu dự phòng, cải thiện năng lực xử lý các thách thức về vấn đề bảo mật thông tin và an ninh mạng tài chính, an ninh công nghệ thông tin, đối  phó hiệu quả với các loại tội phạm công nghệ cao và giữ vững quyền kiểm soát hệ thống của các ngân hàng quốc gia; phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, tiện ích cao, chất lượng, củng cố thương hiệu và uy tín….

TS.Nguyễn Minh Phong

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here