Trong tháng 9/2024, nhiều hãng truyền thông nước ngoài nhận định tích cực, lạc quan về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, thể hiện ở một số nội dung sau:
Dấu hiệu tích cực về tăng trưởng kinh tế
Dấu hiệu tích cực về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các dự báo của các tổ chức quốc tế có uy tín về tăng trưởng GDP của Việt Nam, cụ thể: Tổ chức xếp hạng Fitch Ratings (Mỹ) dự báo, kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ tăng trưởng từ 6 – 7% trong trung hạn nhờ dòng vốn FDI tăng mạnh.
Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 26/8 đánh giá, triển vọng kinh tế của Việt Nam là tích cực với rủi ro cân bằng rộng rãi, đồng thời dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng 6,1% năm 2024 và 6,5% vào năm 2025 và 2026 nhờ sự phục hồi của xuất khẩu sản xuất và du lịch, tiêu dùng và đầu tư kinh doanh;
Hãng Analytics thuộc tập đoàn Moody (Mỹ) nhận định, Việt Nam sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ nhu cầu hàng hóa toàn cầu tăng, từ đó ghi nhận sự tăng trưởng ổn định về GDP lên mức 6,5% năm 2025 so với mức 5,0% năm 2024;
Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS), công ty tư vấn Bain & Company (Mỹ) và tổ chức tư vấn Angsana Council (Singapore) dự báo, Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 6,6% trong giai đoạn 2024 – 2034, vượt xa mức trung bình của khu vực.
Tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á trong thập kỷ tới
Việt Nam tiếp tục tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á trong thập kỷ tới:
Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS), công ty tư vấn Bain & Company (Mỹ) và tổ chức tư vấn Angsana Council (Singapore) nhận định, Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á trong thập kỷ tới.
Tăng trưởng của Việt Nam được thúc đẩy nhờ các yếu tố tích cực như nền kinh tế định hướng xuất khẩu có vị thế tốt để tận dụng các cơ hội từ chiến lược “Trung Quốc + 1”, nguồn FDI đa dạng, cạnh tranh liên tỉnh hiệu quả và hệ thống giáo dục và lực lượng lao động chất lượng cao.
Trang Wilson Center (Mỹ) ngày 30/8 ghi nhận, Việt Nam tiếp tục có sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ phần lớn nhờ những nỗ lực của Chính phủ nhằm theo đuổi hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cải cách theo hướng thị trường. Ngoài ra, chi phí lao động tương đối rẻ đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn cho sản xuất.
Bài viết đánh giá, nhiều quốc gia hiện coi Việt Nam là nền kinh tế thị trường, điều này đã giúp củng cố mối quan hệ thương mại toàn cầu của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tiếp tục ban hành các chính sách được thiết kế để thu hút và giữ chân nhiều đầu tư nước ngoài hơn bằng cách đầu tư vào giáo dục, theo đuổi các hiệp định thương mại tự do và cải thiện cơ sở hạ tầng hướng tới mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng hơn nữa.
Công ty tư vấn quản lý và chiến lược McKinsey & Company (Mỹ) nhận định, trong Quý II/2024, các nền kinh tế Đông Nam Á vẫn có khả năng chống chịu và ghi nhận hiệu suất kinh tế ổn định. Việt Nam, Malaysia, Philippines và Thái Lan ghi nhận tốc độ tăng trưởng tính theo năm cao nhất trong 04 quý vừa qua.
Việt Nam và Philippines tiếp tục là hai nền kinh tế tăng trưởng hàng đầu của khu vực, lần lượt ở mức 6,9% và 6,3%, trong khi Malaysia đứng thứ ba, với mức tăng trưởng 5,9%.
Kinh tế Việt Nam ghi nhận tăng trưởng GDP trong Quý II/2024 ở mức 6,9% so với mức 5,6% trong Quý I/2024. Các ngành công nghiệp và dịch vụ đóng góp phần lớn vào mức tăng trưởng nhờ sản xuất tăng mạnh. Tiêu dùng tư nhân tiếp tục được cải thiện và dự kiến sẽ tăng mạnh trong suốt năm 2024, trong khi lĩnh vực xuất khẩu tiếp tục đà tăng trưởng sau khi toàn cầu phục hồi nhờ những lĩnh vực gồm điện thoại thông minh, điện tử và dệt may. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt được mức tăng trưởng cao trong Quý II/2024, củng cố vị thế của Việt Nam với tư cách là điểm đến đầu tư đáng tin cậy.
Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn ổn định:
Tổ chức xếp hạng Fitch Ratings (Mỹ) giữ nguyên Xếp hạng nhà phát hành nợ dài hạn (IDR) bằng ngoại tệ của Việt Nam ở mức “BB+” với triển vọng ổn định. Quyết định này phản ánh triển vọng tăng trưởng mạnh của Việt Nam nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bền vững và tài chính công lành mạnh, đồng thời cũng nêu bật những thách thức như khuôn khổ chính sách chưa hoàn thiện và đòn bẩy kinh tế cao.
Mức nợ công dự kiến sẽ ổn định, chiếm 34% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình “BB” là 53%. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối đã được cải thiện, đạt 90 tỷ USD vào tháng 01/2024 nhờ thặng dư tài khoản vãng lai và xuất khẩu phục hồi.
Lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam vẫn ổn định bất chấp những thách thức mới đây trên thị trường bất động sản. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (đã hỗ trợ tích cực cho các ngân hàng chủ chốt nhằm duy trì sự ổn định của lĩnh vực ngân hàng.
Fitch Ratings xếp hạng ESG (chỉ số về môi trường, xã hội và quản trị) của Việt Nam ở mức “5” về ổn định chính trị, pháp quyền, chất lượng thể chế và quy định và kiểm soát tham nhũng. Các chỉ số này chỉ ra, những thách thức lớn trong công tác quản trị. Việt Nam xếp hạng dưới mức phần trăm thứ 50 trong các Chỉ số quản trị của Ngân hàng Thế giới – WB, điều này đã tác động tiêu cực đến hồ sơ tín nhiệm của Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam được “4” điểm cho chỉ số ESG về nhân quyền và tự do chính trị và “4+” về quyền của chủ nợ. Đây là thành quả tích cực từ kỷ lục 20 năm không tái cấu trúc nợ công. Nhìn chung, xếp hạng “BB+” của Việt Nam cân bằng giữa triển vọng tăng trưởng mạnh và những thách thức trong quản lý kinh tế và minh bạch chính sách.
Câu chuyện thành công về quá trình chuyển đổi kinh tế ở châu Á
Khẳng định, Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất về quá trình chuyển đổi kinh tế ở châu Á, Trang East Asia Forum (Australia) ngày 3/9 có bài nhận định, Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất về quá trình chuyển đổi kinh tế ở châu Á, chuyển đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp tập trung, biệt lập thành một trung tâm sản xuất và dịch vụ năng động trong vòng 03 thập kỷ.
Theo bài báo, các cải cách đổi mới khởi xướng năm 1986 đã tạo nền tảng cho sự thay đổi và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng sau đó, được hỗ trợ bởi sự mở rộng trong thương mại và đầu tư, đã mang lại những cải thiện chưa từng có về điều kiện xã hội và kinh tế.
Để lấp đầy khoảng trống và thúc đẩy cải cách, Việt Nam đã tích cực theo đuổi các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Việt Nam hiện có 16 FTA và đang đàm phán 3 FTA. Việt Nam là minh chứng cho việc các FTA hiện đại như CPTPP và EVFTA có thể duy trì động lực cải cách.
Chu Văn