TÁI CƠ CẤU, ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

0
84

Đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn của các DNNN, góp phần ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn, đổi mới, sắp xếp lại DNNN ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định. Từ chỗ có hơn 12.000 DNNN vào đầu những năm 1990, đến nay cả nước chỉ còn khoảng 500 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ; hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nộp ngân sách và thu nhập của người lao động tăng lên. Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn DNNN còn chậm, chất lượng cổ phần hóa chưa đạt yêu cầu, số DNNN lớn chưa được cổ phần hóa còn nhiều, số lượng và giá trị vốn hoá của Nhà nước hiện đang nằm tại các công ty cổ phần vẫn còn rất lớn. Những tồn tại trên đòi hỏi quyết tâm cao hơn nữa của các cấp, các ngành, các địa phương và DNNN trong thời gian tới để đạt được các mục tiêu đã đề ra.
1. Chủ trương, chính sách cổ phần hóa DNNN
DNNN là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước, là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện hiệu quả các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường, thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, anh ninh và an sinh xã hội. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của các DNNN ở nước ta đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn DNNN còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực nhà nước đầu tư; nhiều DNNN làm ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản nhà nước; tình trạng lãng phí, tiêu cực còn phổ biến, gây bức xúc trong nhân dân.
Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước đã xác định cần thực hiện đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại DNNN, trong đó cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một giải pháp quan trọng. Cổ phần hóa DNNN là việc nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ giá trị cổ phần của mình tại các DNNN cho các cá nhân hoặc tổ chức trong và ngoài nước. Nói cách khác, cổ phần hóa là quá trình xã hội hóa sở hữu, chuyển từ hình thức một chủ sở hữu nhà nước thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu, từ đó tạo động lực đổi mới, nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Cổ phần hóa DNNN là quá trình nhạy cảm, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến đất đai và tài sản nhà nước, các chế độ đối với người lao động… Vì vậy, quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta được triển khai hết sức thận trọng.
Trong giai đoạn từ 1990-1998, cổ phần hóa được triển khai thí điểm với 123 doanh nghiệp được cổ phần hóa, trong đó hầu hết trường hợp Nhà nước giữ khoảng 30% cổ phần, các nhà đầu tư bên ngoài chỉ được sở hữu nhiều nhất là khoảng 20%-35% số cổ phần.
Từ năm 1998-2011, cổ phần hóa được đẩy mạnh với sự ra đời của hàng loạt các chính sách và văn bản pháp luật, trong đó có Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (tháng 8 năm 2001), Chỉ thị số 04/2002/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/02/2002 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Nghị định số 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/06/2002 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tháng 1 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp phiên thứ IX, thảo luận và quyết định đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần được ban hành cuối năm 2004, theo đó cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước và ngay cả chính tổng công ty nhà nước mà Nhà nước không muốn chi phối đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa. Điểm mới quan trọng nữa trong Nghị định này là quy định việc bán cổ phần lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nếu là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các trung tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1 tỷ đồng, và tại công ty nếu công ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng. Kết quả là có tổng số 3.858 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong giai đoạn này, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Trong giai đoạn từ 2011-2015, cổ phần hóa tiếp tục được đẩy mạnh, gắn liền với quá trình tái cơ cấu DNNN. Các văn bản chỉ đạo bao gồm Đề án “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015” (ban hành kèm theo Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ); Nghị định số 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; Nghị định số 189/2013/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP.
Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, Luật Chứng khoán, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Đất đai… Cụ thể, Chính phủ đã ban hành 13 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 02 Quyết định và 01 công văn chỉ đạo từ tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, trình tự cổ phần hóa, thoái vốn, phương pháp định giá, cơ chế đấu giá bán ra thị trường, chế độ, chính sách đối với người lao động… Triển khai Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/06/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/05/2017 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2016-2020”. Về kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ đề ra mục tiêu cổ phần hóa 127 doanh nghiệp trong giai đoạn 2017-2020; Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/08/2017 của Thủ tướng Chính yêu cầu thực hiện thoái 406 danh mục, khoảng 60.000 tỷ đồng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp phủ thì giai đoạn 2017-2020. Ngoài việc thực hiện thoái vốn theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các đơn vị còn phải thực hiện thoái vốn đầu tư khỏi các ngành, lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro cao, thoái vốn khỏi các ngành nghề không thuộc lĩnh vực kinh doanh chính và thoái vốn theo phương án cơ cấu lại doanh nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Tình hình thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN giai đoạn 2016-2018
2.1. Kết quả đạt được
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2016 đã cổ phần hóa 66 doanh nghiệp với tổng giá trị doanh nghiệp là 40.206 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 27.328 tỷ đồng; năm 2017 đã cổ phần hóa 69 doanh nghiệp với tổng giá trị doanh nghiệp là 365.953 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 160.156 tỷ đồng. Trong 11 tháng đầu năm 2018 đã cổ phần hóa 12 doanh nghiệp với tổng giá trị doanh nghiệp của 12 doanh nghiệp là 29.747 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 15.413 tỷ đồng. Như vậy, đến nay đã cổ phần hóa được 27/127 doanh nghiệp trong kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại công văn số 991/QĐ-TTg (chiếm 21%).
Về thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, trong giai đoạn từ 2016 đến tháng 11/2018, cả nước đã thoái được 17.826 tỷ đồng, thu về 155.735 tỷ đồng. Trong đó, năm 2016: thoái được 3.645 tỷ đồng, thu về 6.839 tỷ đồng; năm 2017 thoái được 9.046 tỷ đồng, thu về 138.327 tỷ đồng. Trong 11 tháng đầu năm 2018: thoái được 5.067 tỷ đồng, thu về 10.499 tỷ đồng. Trong năm 2017 và 2018 đã có 18 đơn vị thực hiện thoái vốn theo kế hoạch tại Quyết định số 1232/QĐ-TTg với giá trị 1.308 tỷ đồng, thu về 2.511 tỷ đồng.
Tổng nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn (bao gồm thoái vốn nhà nước và thoái vốn tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước) trong giai đoạn từ 2016 đến nay đạt khoảng 206.720 tỷ đồng, trong đó năm 2016: 30.000 tỷ đồng; năm 2017: 144.577 tỷ đồng; 11 tháng đầu năm 2018: 32.143 tỷ đồng.
Tuy còn chậm so với kế hoạch đặt ra song các thống kê về tình hình hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau khi thực hiện cổ phần hóa lại chứng tỏ được tác dụng hữu hiệu của hoạt động cổ phần hóa, thoái vốn. Các Tập đoàn, Tổng công ty thực hiện phương án cơ cấu lại doanh nghiệp theo phương án đã được phê duyệt; theo báo cáo kết quả chuyển nhượng vốn của DNNN đầu tư ra ngoài đều có lãi; tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư vốn chỉ tập trung vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nhà nước duy trì doanh nghiệp làm chủ sở hữu không còn hiện tượng đầu tư vốn dàn trải. Các DNNN, doanh nghiệp có vốn góp nhà nước ngoài thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chính đã thực hiện nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo như: dịch vụ viễn thông, đầu tư kết cấu hạ tầng, vệ sinh môi trường, cấp thoát nước, thuỷ lợi, điện lực… Với việc thành lập và đưa Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đi vào hoạt động, đã bước đầu thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
2.2 Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, quá trình cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc khục:
Thứ nhất, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN còn chậm. Việc chậm phê duyệt phương án cơ cấu lại đã và đang ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện và khả năng hoàn thành mục tiêu cơ cấu lại DNNN đề ra theo Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ (đến nay mới có 35 DNNN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại). Việc bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng chậm triển khai (còn 35 doanh nghiệp chưa bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC). Tính đến ngày 15/11/2018, còn 667 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa nhưng chưa đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai, cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới, chưa phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế; việc xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh còn thiếu tính dự báo, thiếu sự liên kết để đáp ứng yêu cầu phát triển chung. Công tác cán bộ, chính sách tiền lương, thưởng của DNNN còn chưa gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, chưa có tác động khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động. Nhiều doanh nghiệp chậm đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch của thị trường, chậm đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp sau cổ phần theo thông lệ và chuẩn mực của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, cũng như hạn chế công tác giám sát của toàn xã hội đối với hoạt động của các doanh nghiệp này.
Thứ ba, cơ chế quản lý, giám sát và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước chưa thật sự rõ ràng và phù hợp; việc thực hiện cơ chế xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra sai phạm cũng như xử lý các vi phạm về giám sát hiệu quả hoạt động của DNNN chưa đầy đủ, nghiêm túc.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan như diễn biến phức tạp về kinh tế, chính trị, thương mại của khu vực và thế giới thì các nguyên nhân chủ quan vẫn là nguyên nhân chính của những hạn chế, tồn tại nêu trên. Cụ thể:
– Một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới và công khai minh bạch hoạt động của doanh nghiệp, chấp hành quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.
– Quá trình cổ phần hóa DNNN cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa. Đặc biệt là vấn đề xác lập hồ sơ pháp lý đất đai do Ủy ban nhân dân địa phương thực hiện chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định dẫn đến các doanh nghiệp phải điều chính tiến độ cổ phần hóa.
– Tỷ lệ vốn nhà nước trong phương án cổ phần hóa DNNN còn cao dẫn đến giảm sức hút đối với các nhà đầu tư mua cổ phần, ảnh hưởng đến thành công của việc cổ phần hóa.
3. Các giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN trong thời gian tới
Nhằm phát huy các kết quả đạt được và đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN trong giai đoạn tới, các Bộ, ngành, địa phương, các Tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nêu cao quyết tâm, tiếp tục hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý về tổ chức quản lý và hoạt động của các DNNN phù hợp với vị trí, vai trò và mục tiêu của DNNN trong giai đoạn 2016-2020, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện nhiệm vụ được giao; đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo đúng mục tiêu, yêu cầu Nghị quyết Trung ương 5 Khóa XII và Nghị quyết số 60/NQ-QH14 của Quốc hội. Các giải pháp cụ thể cần tập trung trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 bao gồm:
(1). Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/06/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII, Nghị quyết số 60/NQ-QH14 của Quốc hội, tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao hơn nữa nhận thức và có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước.
(2). Các Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước cần khẩn trương hoàn thành việc phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quản lý theo đúng quy định tại Quyết định số 707/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó nêu rõ tiến độ, cơ quan tổ chức thực hiện, người chịu trách nhiệm. Gắn kết quả việc thực hiện sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN với việc đánh giá trách nhiệm của người đứng đầu; tiếp tục đổi mới công tác bố trí bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với người đứng đầu DNNN. Các DNNN thuộc diện cổ phần hóa cần khẩn trương rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật đất đai trình Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến về phương án và giá đất để cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo đúng quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 và Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017.
(3). Cơ quan đại diện chủ sở hữu chỉ đạo người đại diện phần vốn nhà nước đôn đốc các doanh nghiệp đã cổ phần hóa: Thực hiện nghiêm việc đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. Thực hiện quyết toán công tác cổ phần hóa và xác định số phải nộp về Quỹ (nếu có) đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa chưa quyết toán và hoàn thành trước 31/12/2018, trường hợp không đảm bảo thời gian thì phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ giải trình rõ nguyên nhân và chịu trách nhiệm về sự chậm trễ này. Thực hiện đúng thời gian việc bàn giao các doanh nghiệp thuộc diện phải bàn giao về SCIC theo đúng quy định hiện hành. Đối với 35 doanh nghiệp thuộc danh mục bàn giao theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg, cơ quan đại diện chủ sở hữu có trách nhiệm điều chỉnh lại tiến độ bàn giao để hoàn thành bàn giao về SCIC trong năm 2018. Cơ quan đại diện chủ sở hữu các cấp chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc hoàn thành danh mục thoái vốn theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg và Quyết định phê duyệt phương án cơ cấu lại được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo đúng tiến độ trong năm 2018-2020. Trường hợp không triển khai thoái vốn đúng tiến độ đối với những danh mục đã được duyệt, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước có trách nhiệm chuyển giao về SCIC để tổ chức thoái vốn theo quy định.
(4). Các DNNN, trọng tâm là các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước phải đi đầu trong đổi mới, áp dụng công nghệ và phương thức kinh doanh theo hướng thông minh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và năng lực cạnh tranh cao hơn, áp dụng phương thức kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, thanh toán điện tử… đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, mô hình quản lý, quản trị trong nền kinh tế 4.0. Hội đồng thành viên, Chủ tịch, Ban lãnh đạo các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty, DNNN chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, triển khai phương án cơ cấu lại DNNN trên toàn bộ các lĩnh vực; Thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư, quản lý tài chính, mua sắm, phân phối thu nhập, công tác cán bộ; trong ký kết và thực hiện các hợp đồng với những người có liên quan đến người quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
(5). Phát huy vai trò của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong việc thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 doanh nghiệp nhà nước đã tiếp nhận theo Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/09/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
(6). Kiên quyết xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư chậm tiến độ, hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả theo cơ chế thị trường.
(7). Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và quản lý, sử dụng vốn nhà nước. Bổ sung nội dung kiểm tra, thanh tra trách nhiệm người đứng đầu đơn vị trong việc chấp hành kỷ luật hành chính khi thực hiện kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; trách nhiệm trong việc tổ chức, hoàn thành kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm. Bổ sung danh mục thanh tra đối với các doanh nghiệp chậm quyết toán tại thời điểm chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần.
(8). Định kỳ công bố công khai thông tin về cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước làm cơ sở để theo dõi, đánh giá tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Mặc dù còn rất nhiều việc phải làm nhưng với quyết tâm của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, quá trình cổ phần hóa, đổi mới, cơ cấu lại DNNN sẽ tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn của nhà nước, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa./.

(Phương Ly)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here