Hiệp hội các nhà sản xuất Trung Quốc tại Hong Kong dẫn số liệu thống kê năm 2019 cho biết tổng dân số của 15 nước thành viên thuộc Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) là 2,27 tỷ người, GDP đạt 26.000 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 5.200 tỷ USD. Các số liệu đều chiếm tỉ lệ 30% so với số liệu chung của toàn cầu.
RCEP bao gồm các quốc gia chủ chốt của khu vực Đông Á, việc hình thành khu vực thương mại tự do này sẽ đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế Đông Á, tăng thêm động lực mới cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo dự đoán của một số tổ chức nghiên cứu quốc tế, đến năm 2025, RCEP có triển vọng thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và GDP của các nước thành viên lần lượt tăng trưởng là 10,4%, 2,6% và 1,8%. Theo ngân hàng HSBC, đến năm 2030, GDP của 15 nước thành viên RCEP sẽ chiếm hơn 50% tỷ trọng toàn cầu, củng cố vững chắc xu thế trọng tâm kinh tế thế giới đang không ngừng dịch chuyển về phía Đông.
Công cụ tích hợp quy tắc kinh tế-thương mại ở châu Á-Thái Bình Dương
Theo văn bản hiệp định được Bộ Thương mại Trung Quốc công bố gần đây, ngoài lời nói đầu, bố cục văn bản của RCEP bao gồm 20 chương chính và 4 phụ lục đính kèm về cam kết tiếp cận thị trường. 20 chương chính của hiệp định bao gồm các nội dung như thương mại hàng hóa, quy tắc nguồn gốc xuất xứ, trợ cấp thương mại, thương mại dịch vụ, đầu tư, thương mại điện tử, mua sắm chính phủ…, 4 phụ lục đính kèm bao gồm biểu cam kết thuế quan, biểu cam kết riêng về dịch vụ, biểu cam kết các biện pháp bảo lưu và biện pháp không tương thích về dịch vụ và đầu tư, biểu cam kết riêng di chuyển tạm thời của thể nhân. Về nội dung, RCEP có một số đặc điểm chính sau:
Xuất phát từ sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên RCEP, quá trình đàm phán của các bên thể hiện rõ đặc điểm tổ chức lỏng lẻo, nhiều đầu mối lãnh đạo, đồng thời kêu gọi sự hợp tác tự nguyện, linh hoạt và tiến dần từng bước, do đó, RCEP có tính bao trùm và linh hoạt hơn về nội dung. Chẳng hạn, 15 nước thành viên đều áp dụng phương thức song phương để thực hiện các thỏa thuận đối với tự do hóa thương mại hàng hóa; các bên đều không yêu cầu thống nhất trong tiến trình thúc đẩy mở cửa thương mại dịch vụ để tạo điều kiện cho một số nước có được thời kỳ chuyển tiếp thuận lợi; hiệp định còn quy định, khi triển khai hợp tác kinh tế và công nghệ, sẽ ưu tiên cân nhắc nhu cầu của các nước kém phát triển.
RCEP là công cụ tích hợp quy tắc kinh tế-thương mại trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đã kết hợp nhiều hiệp định thương mại tự do mà ASEAN ký kết với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand (ASEAN+1), cũng như nhiều cặp quan hệ đối tác thương mại tự do đã có giữa 5 nước là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, đồng thời được nâng cấp toàn diện. Bên cạnh đó, RCEP cũng đã bổ sung những lĩnh vực còn thiếu mà hiệp định thương mại song phương giữa một số nước chưa đạt được, giúp Trung Quốc và Nhật Bản cũng như Nhật Bản và Hàn Quốc lần đầu tiên thiết lập được quan hệ đối tác thương mại tự do song phương thông qua nền tảng RCEP.
Về thương mại hàng hóa. Sau khi RCEP có hiệu lực, trên 90% thương mại hàng hóa trong khu vực sẽ được hưởng mức thuế 0%, hơn nữa việc ngay lập tức giảm thuế về 0% và từng bước giảm về mức này trong 10 năm sẽ giúp khu vực thương mại tự do RCEP có hy vọng thực hiện được tất cả các cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa trong thời gian tương đối ngắn.
Về quy tắc nguồn gốc xuất xứ. RCEP thực hiện quy tắc tích lũy khu vực thống nhất, giúp thành phần giá trị về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm có thể tích lũy ở 15 nước thành viên, theo đó thành phần giá trị đến từ bất kỳ bên nào trong RCEP đều được tính trong nội khối. Dưới thỏa thuận có liên quan, các công ty đa quốc gia có thể linh hoạt hơn trong việc bố trí không gian sản xuất trong khu vực, cũng như điều phối nguyên liệu sản xuất giữa các nước thành viên, thiết lập hệ thống phân công chuỗi sản xuất chính xác hơn và hoàn thiện hơn. Điều này không chỉ có lợi cho việc mở rộng thương mại giữa các thành viên RCEP, mà còn thúc đẩy hội nhập sâu hơn của chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong khu vực.
Bên cạnh đó, RCEP sẽ làm phong phú hơn các loại hình giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, trên cơ sở giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ truyền thống, cho phép nhà xuất khẩu đã được phê chuẩn tự chứng nhận. Điều này đánh dấu cơ chế chứng nhận nguồn gốc xuất xứ đã chuyển từ mô hình cơ quan cấp thị thực ký theo ủy quyền của chính phủ sang mô hình tự chứng nhận để bảo đảm tín nhiệm doanh nghiệp. Ngoài tiết kiệm chi phí quản lý hành chính của chính phủ và chi phí hoạt động của doanh nghiệp, điều này còn giúp rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa.
Về thương mại dịch vụ. RCEP đã mở rộng tiêu chuẩn tiếp cận đối với thương mại dịch vụ và đầu tư xuyên quốc gia, dựa vào danh sách hạn chế để tiến hành đàm phán tiêu chuẩn tiếp cận đầu tư, mức độ mở cửa tổng thể cao hơn đáng kể so với hiệp định thương mại tự do ban đầu giữa các nước thành viên. Trong đó, 7 quốc gia thành viên bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Singapore, Brunei, Malaysia, Indonesia đi đầu trong việc áp dụng hình thức danh mục hàng hóa hạn chế nhập khẩu, 8 quốc gia thành viên còn lại cam kết áp dụng danh sách hàng hóa cho phép nhập khẩu ngay từ đầu, nhưng sẽ chuyển sang danh sách hàng hóa hạn chế nhập khẩu sau 6 năm hiệp định có hiệu lực.
RCEP cũng so sánh các quy tắc thương mại tự do tiêu chuẩn cao của quốc tế, đưa vào các lĩnh vực như quyền sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm chính phủ… Chẳng hạn, trên lĩnh vực thương mại điện tử, các nước thành viên thống nhất duy trì biện pháp không đánh thuế thương mại điện tử hiện nay.
Bối cảnh đặc biệt của RCEP
Với tư cách là khuôn khổ thương mại tự do khu vực có quy mô lớn nhất toàn cầu hiện nay, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến RCEP vẫn có thể ra đời trong bối cảnh toàn cầu hóa đang phải đương đầu với trở ngại lớn chính là các nước thành viên luôn trung thành và được hưởng lợi từ toàn cầu hóa kinh tế. Trên thực tế, do Tổ chức thương mại thế giới (WTO) gặp nhiều khó khăn trong những năm gần đây, nên hợp tác kinh tế-thương mại mang tính thể chế hóa trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương phát triển bùng nổ, số lượng các hiệp định song phương và đa phương được ký kết luôn dẫn đầu thế giới. Theo thống kê của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), năm 2000 khu vực châu Á-Thái Bình Dương chỉ có 39 hiệp định thương mại tự do được ký kết và có hiệu lực, nhưng đến năm 2020 con số này đã tăng lên đến 168.
Một nguyên nhân khác là liên kết sản xuất của các nền kinh tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương ngày càng tăng lên, mức độ phụ thuộc lẫn nhau về thương mại ngày càng cao, làm cho nền tảng lợi ích chung của việc thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế-thương mại được củng cố vững chắc hơn. Trải qua hơn nửa thế kỷ phát triển, giữa các nền kinh tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã thiết lập một hệ thống hợp tác sản xuất công nghiệp đan xen dày đặc, phân công hữu cơ. Chẳng hạn, Nhật Bản và Hàn Quốc cung cấp linh kiện then chốt cho Trung Quốc và ASEAN, trong khi ASEAN xuất khẩu hàng hóa bán thành phẩm cho Trung Quốc; Australia cung cấp nguyên liệu thô cho Trung Quốc, trong khi Trung Quốc xuất khẩu linh kiện và hàng hóa tiêu dùng sang ASEAN, từ đó thúc đẩy việc hình thành môi trường thương mại sôi động, gắn kết chặt chẽ trong khu vực.
Lấy thương mại nội khối giữa các nước thành viên RCEP làm ví dụ, tỷ trọng thương mại xuất khẩu hàng hóa trung gian của Hàn Quốc sang Trung Quốc đã tăng từ 13,7% (năm 2007) lên 26,8% (năm 2017), cùng thời gian đó hàng hóa trung gian của Nhật Bản xuất khẩu sang Trung Quốc tăng từ 7,1% lên 16,1%, trong khi Australia tăng mạnh từ 6% lên 29,1%. Năm 2018, tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc với các nước thành viên RCEP đạt hơn 1.300 tỷ USD, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm của Trung Quốc. Tính đến năm 2019, Trung Quốc đã 11 năm liên tục trở thành đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN, năm 2020 lần đầu tiên ASEAN trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc.
Trung Quốc tích cực phát huy vai trò lãnh đạo là một trong những nhân tố có lợi trong việc thúc đẩy RCEP được ký kết thành công. Thương mại giữa Trung Quốc và các nước RCEP khác duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của ASEAN, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, đồng thời là điểm đến xuất khẩu hàng hóa lớn thứ hai của Nhật Bản, chiếm tỷ trọng 14%-32,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước. Dưới lực đẩy của thị trường Trung Quốc, cộng thêm sự phối hợp và thúc đẩy của một cường quốc kinh tế trong khu vực khác là Nhật Bản và ASEAN – tổ chức thương mại có quy mô lớn nhất, thì việc RCEP được ký kết là điều đương nhiên.
Những năm gần đây, làn sóng chuyển dịch sản xuất mới do cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung tạo ra đang khiến cho cục diện thương mại và đầu tư của khu vực có sự thay đổi mang tính cơ cấu lớn. Hệ thống hợp tác và phân công sản xuất trong khu vực không những chặt chẽ hơn, mà còn cụ thể và có hệ thống hơn. Đồng thời, sau khi dịch COVID-19 bùng phát, doanh nghiệp của các nước châu Á lần lượt chuyển hướng sang các thị trường thương mại xuất khẩu và kênh cung ứng hàng hóa gần nhất. Những nguyên nhân trực tiếp này khiến cho tầm quan trọng và tính cấp bách trong việc ký kết RCEP của các nước châu Á càng nổi bật hơn. Theo đó, những nước này cần thiết lập một cơ chế phối hợp khu vực cấp cao và bao trùm để điều chỉnh, quy hoạch và làm sâu sắc quan hệ kinh tế-thương mại lẫn nhau dưới góc nhìn toàn khu vực trên nền tảng rộng lớn hơn.
Ý nghĩa chiến lược của RCEP đối với Trung Quốc
RCEP là hiệp định thương mại tự do đa phương có quy mô lớn đầu tiên mà Trung Quốc ký kết, đặt nền tảng thể chế hóa cho việc xây dựng khu vực thương mại tự do có quy mô lớn nhất toàn cầu, có ý nghĩa cột mốc rất quan trọng. Mặc dù RCEP do ASEAN khởi xướng vào năm 2011, nhưng cho dù là xét trên phương diện quy mô nền kinh tế, số lượng dân số, quy mô thương mại hay tiềm năng thị trường tiêu dùng… thì Trung Quốc đều đứng đầu, có đủ năng lực đảm nhận vai trò lãnh đạo trên thực tế trong quá trình xây dựng quy tắc kinh tế-thương mại ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời dựa vào đó để nâng cao hơn nữa ảnh hưởng kinh tế-thương mại và chính trị ở khu vực này, thậm chí là trên trường quốc tế.
Xét về thời điểm ký kết hiệp định, mặc dù cạnh tranh nước lớn giữa Mỹ và Trung Quốc trong những năm gần đây diễn ra ngày càng quyết liệt, nhưng Trung Quốc đã đi đầu xây dựng thành công khu vực thương mại tự do đa phương không có sự tham gia của Mỹ, điều này đã khôi phục tinh thần hợp tác kinh tế-thương mại đa phương giữa Trung Quốc và các nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, tượng trưng cho một thắng lợi quan trọng của chủ nghĩa đa phương và thương mại tự do. Đây có thể nói là sự đảo ngược đối với chủ nghĩa bảo hộ thương mại đơn phương do Chính quyền Donald Trump khởi xướng, từ đó tuyên bố toàn cầu hóa và phân công hợp tác vẫn sẽ là xu thế chính và chủ đạo phát triển kinh tế thương mại quốc tế trong tương lai.
Cơ cấu các nước thành viên của RCEP tương đối đa dạng, vừa có các nền kinh tế phát triển (Australia, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…), vừa có các thị trường mới nổi có tính đại diện (Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia…), đồng thời còn có cả những nước thu nhập tương đối thấp (Myanmar, Campuchia…). Thông qua xây dựng môi trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư cởi mở hơn giữa các nước thành viên, RCEP từng bước thúc đẩy hội nhập kinh tế-thương mại khu vực, đặc biệt là có lợi cho việc thúc đẩy thuận tiện hóa, lưu chuyển một cách linh hoạt các yếu tố kinh doanh như hàng hóa, tài nguyên, công nghệ, nhân tài…, nâng cao năng lực chuyển giao, đảm nhận và tích hợp sản xuất trong khu vực, có lợi cho việc duy trì sức sống và tính toàn vẹn của chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị trong khu vực.
Là trung tâm chuỗi cung ứng của ngành chế tạo sản xuất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc có thể dựa vào nền tảng RCEP để thúc đẩy dịch chuyển một bộ phận sản xuất sang các nước đang phát triển khác trong khu vực phù hợp với nhu cầu nâng cấp ngành công nghiệp của mình. Đồng thời, Trung Quốc còn có thể được hưởng lợi từ việc khu vực thương mại tự do liên tục mở rộng và xu hướng hội nhập của thị trường lớn, từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giành thị phần lớn hơn trên thị trường giá trị gia tăng cao.
Năm 2015, Chính quyền Obama đi đầu trong việc thúc đẩy ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định này chủ yếu dựa vào các quốc gia châu Á, quảng bá cơ chế hợp tác đa phương về thương mại tự do tiêu chuẩn cao, nhưng lại gạt Trung Quốc nền kinh tế quan trọng nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương ra ngoài, bị các giới coi là “ngón đòn hiểm” để Mỹ bao vây Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế-thương mại. Ở mức độ nhất định, điều này buộc Trung Quốc phải tích cực hơn trong việc tham gia RCEP do ASEAN khởi xướng, đồng thời phát huy vai trò đặc biệt của mình với tư cách là nền kinh tế và quốc gia thương mại lớn nhất châu Á, thúc đẩy các bên nhanh chóng đạt được thỏa thuận, lấy đó làm một trong những sách lược quan trọng để ứng phó và phá vỡ vòng bao vây của TPP đối với Trung Quốc.
Đối với Trung Quốc, mặc dù TPP – đối thủ của RCEP – đã thay đổi hoàn toàn do Chính quyền Donald Trump rút lui, nhưng giá trị chiến lược của nó trong việc chống lại sự mở rộng sức ảnh hưởng chính trị và kinh tế của Mỹ ở châu Á vẫn hiện hữu. Mặc dù sau khi lên nắm quyền, chưa chắc Chính quyền Biden sẽ khởi động lại TPP, và ít có khả năng tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) do Nhật Bản dẫn dắt, nhưng rất có thể ông sẽ làm theo cách của người đi trước, quán triệt đường lối quan hệ quốc tế của đảng Dân chủ, quay lại chính sách dưới thời Obama – xoay trục sang châu Á.
Thông qua RCEP, Trung Quốc sẽ hợp tác chặt chẽ với các nước châu Á, tăng cường mức độ phụ thuộc kinh tế, có thể nói là đã đi trước một bước để giành được quyền chủ đạo. Cộng thêm RCEP có lợi cho việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng của châu Á, mối quan hệ cộng sinh ngành nghề và cầu nối “cộng đồng chung vận mệnh” giữa Trung Quốc và các nền kinh tế xung quanh sẽ ngày càng bền chặt hơn, khiến cho kế hoạch chia rẽ và chính sách loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc của Mỹ khó đạt được kết quả như mong muốn.
Vấn đề cần đề cập là thông qua nền tảng RCEP, Trung Quốc và Nhật Bản đã lần đầu tiên thiết lập quan hệ đối tác thương mại tự do song phương. Hiện nay, RCEP là khuôn khổ thỏa thuận thương mại tự do duy nhất mà Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cùng tham gia, ngoài có lợi cho việc thúc đẩy hình thành cục diện mở cửa thị trường mới và triển khai hợp tác kinh tế-thương mại-công nghệ ở mức độ cao hơn giữa 3 nước, còn có hy vọng lấy đó làm cơ sở để đẩy nhanh tiến trình đàm phán khu vực thương mại tự do Trung-Nhật-Hàn. Có báo cáo nhấn mạnh việc Trung Quốc và Nhật Bản lần đầu tiên đạt được thỏa thuận cắt giảm thuế quan song phương là bước đột phá mang tính lịch sử. Tỷ lệ xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa hai nước đi vào thị trường của nhau lên đến 86%, chẳng hạn thuế nhập khẩu các sản phẩm của Nhật Bản được thị trường Trung Quốc ưa chuộng như sò điệp, rượu sake… sẽ được xóa bỏ, trong khi đó các sản phẩm như động cơ xe điện và sắt thép… cũng được đưa vào danh sách đối tượng xóa bỏ thuế quan.
Quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên RCEP với Hong Kong
Phần lớn các nước thành viên RCEP có mối quan hệ kinh tế-thương mại chặt chẽ với Hong Kong, nhiều nền kinh tế còn là đối tác kinh tế-thương mại quan trọng của vùng lãnh thổ này. Năm 2019, tổng kim ngạch thương mại giữa Hong Kong và các nước thành viên RCEP đạt 765,5 tỷ USD, chiếm 71% tỷ trọng thương mại của Hong Kong. Trong số 10 đối tác thương mại lớn nhất của Hong Kong năm 2019, có 7 nước thuộc RCEP bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan, trong khi Philippines và Australia nằm trong top 12.
Mặc khác, các nước thành viên RCEP cũng là nguồn đầu tư nước ngoài và điểm đến đầu tư nước ngoài quan trọng của Hong Kong. Tính đến cuối năm 2018, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản lần lượt là các nhà đầu tư lớn thứ 2, thứ 6 và thứ 8 của Hong Kong, trong khi Australia và Hàn Quốc lần lượt là nhà đầu tư lớn thứ 16 và 17. Đồng thời, Trung Quốc, ASEAN, Australia lần lượt là điểm đến đầu tư ở nước ngoài thứ nhất, thứ 4 và thứ 8 của dòng vốn đầu tư Hong Kong.
Dưới khuôn khổ “một nước, hai chế độ”, Đặc khu hành chính Hong Kong là khu thuế quan riêng biệt, có thể ký kết và thực hiện các thỏa thuận kinh tế, thương mại… với các đối tác thương mại trên danh nghĩa Hong Kong, Trung Quốc. Tính đến nay, Hong Kong và các nước thành viên RCEP bao gồm Trung Quốc, ASEAN, Australia, New Zealand đã lần lượt ký thỏa thuận thương mại tự do song phương, nhưng Hong Kong chưa đàm phán thỏa thuận thương mại tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc.
Đánh giá tác động đối với kinh tế Hong Kong
Xét về mặt lý thuyết, sau khi một hiệp định kinh tế-thương mại được thực hiện thì sẽ thường có hiệu ứng sáng tạo thương mại và hiệu ứng chuyển dịch thay thế. Ở mức độ nhất định, việc RCEP có hiệu lực sẽ kích thích các nước ký kết “bỏ ngoài tìm trong”, cắt giảm khối lượng thương mại với các nước ngoài khu vực. Điều này có thể sẽ mang lại hiệu quả chuyển dịch thương mại hoặc phân luồng thương mại với các nước và khu vực bên ngoài, làm cho các nền kinh tế không phải là thành viên của RCEP như Hong Kong đối diện với thách thức nhất định.
Tuy nhiên, do các sản phẩm do Hong Kong sản xuất và xuất khẩu không nhiều, nên tác động cũng tương đối hạn chế. Ngược lại, để phù hợp với quy tắc vận chuyển trực tiếp hưởng ưu đãi thuế quan, doanh nghiệp của một số nước ký kết RCEP phải từ bỏ phương thức trung chuyển hàng hóa thông qua bên thứ 3 ngoài khu vực thương mại tự do, có lẽ điều này sẽ gây nên tác động đối với nghiệp vụ trung chuyển của Hong Kong.
Tuy nhiên, mặt khác việc RCEP thông qua xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nội khối sẽ mang lại hiệu ứng sáng tạo thương mại và cải thiện hiệu quả của các nước ký kết, có lợi cho việc nâng cao quy mô thương mại của toàn bộ khu vực. Khi “miếng bánh” thương mại ở châu Á-Thái Bình Dương lớn lên, với tư cách là đầu mối thương mại trung gian (tái xuất) chủ yếu trong khu vực, tin rằng Hong Kong sẽ hưởng lợi từ quá trình này.
Vấn đề này có thể kiểm chứng từ tác động của Hiệp định khung hợp tác kinh tế hai bờ eo biển (ECFA) và Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA) đối với Hong Kong. Hai hiệp định thương mại tự do này đều có điều khoản yêu cầu phải phù hợp với “vận chuyển trực tiếp” mới có thể được hưởng ưu đãi thuế quan, nhưng thực tế đã chứng minh vai trò của Hong Kong với tư cách là trạm trung chuyển thương mại giữa hai bờ eo biển, giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã không bị suy yếu vì điều này. Theo thống kê số liệu kim ngạch thương mại giai đoạn 2001-2017, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc và Đài Loan đều là 12,8%, trong cùng giai đoạn đó lượng hàng tái xuất qua Hong Kong đạt mức tăng trưởng bình quân 8,8%/năm.
Kể từ khi CAFTA có hiệu lực vào năm 2010 đến nay, Hong Kong luôn đảm nhận vai trò cầu nối quan trọng trong trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN, tỷ lệ tăng trưởng tổng hợp hàng năm của kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc-ASEAN trong giai đoạn 2009-2019 là 11,7%, kim ngạch thương mại tái xuất qua Hong Kong giữa Trung Quốc và ASEAN trong giai đoạn này tăng trung bình 7,9%/năm. Theo số liệu thống kê năm 2019, tổng kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc-ASEAN đã đạt mức cao mới trong lịch sử với 641,6 tỷ USD; cũng trong năm 2019, tổng thương mại tái xuất qua Hong Kong đạt 64,38 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 10%.
Có thể thấy sau khi ECFA và CAFTA có hiệu lực, thương mại tái xuất qua Hong Kong của Trung Quốc và Đài Loan, ASEAN vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định, mặc dù tốc độ tăng trưởng thấp hơn một chút so với tổng giá trị thương mại giữa hai bờ eo biển cũng như giữa Trung Quốc và ASEAN, nhưng rõ ràng cao hơn tốc độ tăng trưởng thương mại tái xuất nói chung của Hong Kong trong cùng kỳ (giai đoạn 2001-2017 là 6,4%, giai đoạn 2009-2019 là 3,7%). Điều này cho thấy thỏa thuận hợp tác thương mại giữa Trung Quốc và các nền kinh tế khác sẽ làm có hiệu ứng sáng tạo thương mại tích cực, ngay cả khi Hong Kong không tham gia thỏa thuận cũng có thể được hưởng lợi ở mức độ nhất định, hơn nữa vai trò và giá trị đặc biệt của Hong Kong với tư cách là trạm trung chuyển kinh tế-thương mại sẽ không thể dễ dàng bị thay thế hoặc xóa bỏ.
Sau khi RCEP có hiệu lực, trên 90% thương mại hóa trong khu vực sẽ thực hiện thuế quan bằng 0%. Các nhà sản xuất của Hong Kong đã sớm thông qua việc phát triển vươn ra bên ngoài để xây dựng các ngành công nghiệp có quy mô lớn ở các nước RCEP, đặc biệt là ở Trung Quốc và các nước ASEAN, không ít doanh nghiệp áp dụng mô hình hoạt động ở nhiều nơi, phân phối quy trình sản xuất ở các nước khác nhau trong khu vực. Các doanh nghiệp của Hong Kong bám trụ vững chắc ở những quốc gia thành viên RCEP này sẽ giảm được chi phí do miễn giảm thuế quan, từ đó khiến năng lực cạnh tranh về giá cả hàng hóa và hiệu quả hoạt động đều được nâng cao.
Những năm gần đây, chi phí sản xuất ở Trung Quốc liên tục tăng nhanh, áp lực nâng cấp ngành nghề của đồng bằng Châu Giang và các tỉnh ven biển tăng mạnh, cộng thêm quan hệ kinh tế và thương mại Trung-Mỹ liên tục căng thẳng đã thúc đẩy một số nhà sản xuất Hong Kong nhanh chóng dịch chuyển một phần quy trình sản xuất từ Trung Quốc ra nước ngoài, đặc biệt là sang các nước Đông Nam Á giàu tài nguyên và có nguồn nhân lực dồi dào như Việt Nam, Myanmar, Indonesia…
Sau khi RCEP được ký kết, các nhà sản xuất Hong Kong chuyển từ Trung Quốc sang Đông Nam Á có thể nhận được điều kiện tiếp cận thị trường và bảo hộ đầu tư thuận lợi hơn. Đồng thời, quy tắc nguồn gốc xuất xứ bao gồm quy tắc tích lũy khu vực được thực hiện thống nhất giữa các nước thành viên cũng có lợi cho các nhà sản xuất tiến hành quy hoạch lại và tối ưu hóa việc phân phối tài nguyên sản xuất và tình hình hoạt động trong phạm vi khu vực, bố trí linh hoạt hơn mô hình nghiệp vụ và địa điểm sản xuất, đặc biệt là có thể sử dụng đồng bộ lợi thế so sánh và nguồn tài nguyên đặc biệt của các nước khác nhau. Chẳng hạn như tổ chức gia công chế biến nguyên liệu thô, bán thành phẩm, nguồn nhân lực… để cải thiện năng lực cạnh tranh tổng thể của ngành sản xuất có vốn đầu tư của Hong Kong trên các phương diện như kiểm soát chi phí và quản lý chuỗi cung ứng…
Trần Quyên