RCEP: Bước đầu mang lại lợi ích, củng cố trụ cột mới của hội nhập kinh tế châu Á

0
32
Bộ Công Thương đã xây dựng và chuẩn bị triển khai kế hoạch tuyên truyền, giới thiệu các thông tin về RCEP. (Nguồn: binhdinh.gov)

Đứng trước những xu hướng và thách thức mới về sự thay đổi sâu sắc và phức tạp của tình hình địa kinh tế và địa chính trị toàn cầu, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với vai trò là hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, đã được triển khai toàn diện và bước đầu mang lại lợi ích.

Đặc điểm chính của RCEP là lấy phát triển làm định hướng, đề cao thương mại tự do, nhấn mạnh hợp tác kinh tế sâu rộng và phát triển cân bằng. (Nguồn: binhdinh.gov)

Thực tiễn bước đầu chứng minh RCEP thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Đặc điểm chính của cơ chế này là lấy phát triển làm định hướng, đề cao thương mại tự do, nhấn mạnh hợp tác kinh tế sâu rộng và phát triển cân bằng; lấy Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) làm chủ thể, thiết lập thỏa thuận về thương mại tự do của khu vực với trung tâm là các nền kinh tế đang phát triển; lấy bao dung làm đặc điểm và kiên trì nguyên tắc mở cửa khu vực, đề cao tinh thần tiến bộ và tính linh hoạt, theo phân tích của trang aisixiang.com.

RCEP đang định hình lại mô hình mới về hợp tác kinh tế và thương mại châu Á

Việc thực thi RCEP hiệu quả và mang lại lợi ích sẽ làm thay đổi sâu sắc cục diện kinh tế và thương mại ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và thậm chí cả toàn cầu. Cơ chế này cũng sẽ tạo động lực để Trung Quốc tham gia quản trị kinh tế toàn cầu và hình thành mô hình phát triển mới với vòng tuần hoàn kép trong nước và quốc tế thúc đẩy lẫn nhau.

Thứ nhất, RCEP là tổng hợp các cơ chế hợp tác kinh tế-thương mại châu Á, giải phóng tiềm năng to lớn của thị trường khu vực. RCEP đã trở thành “cỗ máy điều phối” các cơ chế hợp tác khu vực. RCEP điều phối 27 hiệp định thương mại tự do và 44 hiệp định đầu tư sẵn có của châu Á, đồng thời lần đầu tiên các nền kinh tế lớn của châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc được đưa vào thỏa thuận quy tắc thị trường đơn nhất.

Từ năm 2022-2023 sau khi RCEP chính thức có hiệu lực, tốc độ tăng trưởng kinh tế của 8 nước thành viên cao hơn trước khi hiệp định có hiệu lực và cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của thế giới.

RCEP giảm chi phí mang tính thể chế kinh tế-thương mại và thúc đẩy tăng trưởng đầu tư thương mại trong khu vực.

Đầu tiên, các biện pháp như ưu đãi thuế quan sẽ giải phóng tiềm năng tăng trưởng thương mại trong khu vực. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc sang nước 14 thành viên còn lại của RCEP đạt 12.600 tỷ NDT, tăng 5,3% so với năm 2021 trước khi RCEP có hiệu lực. Thứ hai, các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại đã làm giảm đáng kể chi phí thương mại trong khu vực. Thứ ba, sự kết hợp giữa danh sách hạn chế đầu tư và cơ chế quản lý chặt chẽ giúp tối ưu hóa môi trường đầu tư trong khu vực. Năm 2023, đầu tư trực tiếp phi tài chính của Trung Quốc vào các quốc gia thành viên khác của RCEP tăng 26% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn 14 điểm phần trăm so với tốc độ tăng trưởng đầu tư trực tiếp toàn cầu của Trung Quốc.

RCEP thúc đẩy sự phát triển hội nhập của hai nền kinh tế năng động nhất là Trung Quốc và ASEAN. Điểm nổi bật là giải phóng hiệu quả tiềm năng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và ASEAN, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước kém phát triển nhất ASEAN. Từ năm 2000-2021, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khu vực châu Á tăng trưởng với tốc độ bình quân hằng năm là 5% nếu tính theo tỷ giá của đồng USD năm 2015, thì cao gấp 1,8 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của thế giới, trong đó Trung Quốc và ASEAN đóng góp 68,9% vào tăng trưởng chung của khu vực châu Á. Năm 2022, tốc độ tăng trưởng thương mại của các nước Lào, Myanmar, Campuchia so với các thành viên RCEP khác lần lượt là 28,13%, 13,68% và 3,42%. Tốc độ tăng trưởng GDP của 3 nước trong cùng kỳ lần lượt là 2,7%, 4% và 5,4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế toàn cầu.

Thứ hai, RCEP định hình lại cục diện hợp tác ở châu Á, định hình lại chuỗi cung ứng công nghiệp của châu Á.

Đầu tiên, quy tắc cộng gộp xuất xứ thúc đẩy sự phát triển tổng hợp chuỗi công nghiệp, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong khu vực. Các nước thành viên RCEP có thể tận dụng tài nguyên của các nước đang phát triển trong khu vực, cơ sở sản xuất hàng hóa trung gian và lợi thế công nghệ của các nền kinh tế phát triển, đồng thời tận dụng tối đa quy tắc cộng gộp xuất xứ trong khu vực để hình thành chuỗi công nghiệp, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị khép kín trong khu vực. Hai là, tính bền vững của chuỗi cung ứng và chuỗi công nghiệp khu vực đã được củng cố thêm. Tỷ trọng thương mại hàng hóa trung gian khu vực RCEP trong tổng kim ngạch thương mại tăng từ khoảng 64,5% vào năm 2021 lên khoảng 65% vào năm 2022. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm chung vào năm 2023, tỷ trọng thương mại hàng hóa trung gian trong khu vực RCEP đã tăng lên khoảng 66%, thể hiện tính ổn định cao. Ngoài ra, sự kết hợp giữa danh sách thương mại dịch vụ tích cực và tiêu cực sẽ thúc đẩy sự phát triển ổn định của chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và chuỗi ngành nghề khu vực.

Nâng cao vị thế của châu Á trong cục diện công nghiệp toàn cầu. RCEP là khu vực có mức độ hội nhập cao nhất của chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2023, kim ngạch thương mại hàng hóa trung gian của Trung Quốc với khu vực này là 8.200 tỷ NDT, chiếm khoảng 65% tổng kim ngạch thương mại với khu vực và 33,2% tổng kim ngạch thương mại hàng hóa trung gian toàn cầu. Dữ liệu hải quan trong 4 tháng đầu năm 2024 cho thấy, thương mại hàng hóa trung gian giữa Trung Quốc và các quốc gia thành viên RCEP khác đạt 2.900 tỷ NDT, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước.

RCEP giảm bớt một phần tác động của địa chính trị. Năm 2021, tỷ trọng thương mại dịch vụ trong thương mại song phương giữa Trung-Nhật, Trung-Hàn, Nhật-Hàn lần lượt là 7,8%, 8,22% và 11,06%. Chính sách mở cửa thương mại dịch vụ RCEP phát huy hiệu quả đã trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển hội nhập của thương mại dịch vụ của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong khu vực.

Thứ ba, RCEP tăng cường vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác kinh tế, thương mại khu vực. RCEP thể hiện sự năng động và sức hấp dẫn thông qua việc coi ASEAN là chủ thể chủ đạo. Dự kiến đến năm 2035, tỷ trọng GDP của châu Á so với thế giới tăng từ 39,1% của năm 2021 lên 45%-50%. Xét về tốc độ tăng trưởng lũy tiến, tỷ lệ đóng góp của Trung Quốc và ASEAN duy trì ở mức trên 60%. RCEP thừa nhận sự khác biệt trong phát triển, vừa bảo đảm tính nguyên tắc vừa linh hoạt, đồng thời làm nổi bật mô hình hợp tác khu vực dựa trên sự đồng thuận, thể hiện rõ hơn vai trò và lợi thế của cơ chế này trong việc thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực.

Các thỏa thuận quy tắc bao dung theo định hướng phát triển giúp các nước kém phát triển nhất được hưởng lợi ích từ hợp tác kinh tế và thương mại khu vực. RCEP thiết lập các điều khoản đối xử đặc biệt và khác biệt, đồng thời cung cấp các thỏa thuận quá độ cho các nước kém phát triển nhất trong ASEAN. RCEP bao gồm các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế chênh lệch nhau lớn nhất thế giới, tỷ lệ GDP bình quân đầu người giữa nước cao nhất và thấp nhất là 42:1, trong đó các nước kém phát triển nhất được hưởng lợi nhiều hơn. Năm 2022, tổng kim ngạch thương mại trong khu vực của Lào và Myanmar tăng lần lượt 28,13% và 13,68% so với cùng kỳ năm 2021, là động lực quan trọng giúp ASEAN sẽ phát triển thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới. ASEAN đang trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế thần tốc. Dự kiến đến sau năm 2030, GDP của ASEAN sẽ đạt khoảng 6.600 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Liên minh châu Âu (EU).

Thứ tư, RCEP là giải pháp chiến lược tối ưu hóa lộ trình mở cửa của Trung Quốc, điểm khởi đầu lớn nhất cho lộ trình mở cửa của Trung Quốc. Năm 2023, tỷ trọng tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và các nền kinh tế RCEP khác trong tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc sẽ tăng 1,1 điểm phần trăm so với năm 2021. Trong đó, kim ngạch thương mại Trung Quốc-ASEAN tăng gần 4 điểm phần trăm so với năm 2021. Trung Quốc và ASEAN là đối tác thương mại lớn nhất của nhau trong 4 năm liên tiếp. Năm 2023, đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN tăng tới 44,6%, với tổng vốn đầu tư hai chiều lũy kế đạt hơn 380 tỷ USD.

Sự mở cửa ở trình độ cao của Trung Quốc giúp tái cân bằng cục diện kinh tế châu Á. Việc mở cửa thị trường Trung Quốc đã mang lại lợi ích lớn cho sự hội nhập kinh tế của châu Á. Ví dụ, đến năm 2030, tỷ trọng tiêu dùng trong lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc ước đạt hơn 50%, điều này sẽ mang lại một thị trường dịch vụ mới trị giá 10 nghìn tỷ USD và nhu cầu lớn hơn về dịch vụ cho các nền kinh tế khác của châu Á. Hiệu ứng tác động thị trường của Trung Quốc đã thúc đẩy việc điều chỉnh mô hình phân công lao động “châu Á sản xuất, toàn cầu tiêu dùng” và dần hình thành mô hình mới “châu Á sản xuất, châu Á tiêu dùng”.

Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia tiên phong trong xu thế mới của toàn cầu hóa kinh tế. Từ năm 2024-2028, kim ngạch xuất nhập khẩu thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ của Trung Quốc dự kiến sẽ lần lượt vượt 32 nghìn tỷ USD và 5 nghìn tỷ USD. Quy mô này tương đương 54% tổng kim ngạch hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu toàn cầu vào năm 2023. Dự kiến từ 5-10 năm tới, đóng góp của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới vẫn có khả năng duy trì ở mức khoảng 30%. Thực tiễn thành công của RCEP sẽ tạo tiền lệ quan trọng cho việc thúc đẩy cải cách hệ thống thương mại đa phương với hạt nhân là Tổ chức thương mại thế giới (WTO), và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế châu Á.

Tỷ lệ áp dụng quy tắc xuất xứ RCEP thấp

RCEP đã chính thức có hiệu lực được hơn 2 năm và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Những thách thức này chủ yếu là do tỷ lệ áp dụng quy tắc xuất xứ thấp. Điều này là do các yếu tố như thời gian có hiệu lực ngắn, ngoài ra còn có một số vấn đề mang tính cơ cấu.

Thứ nhất, tỷ lệ vận dụng các quy tắc còn thấp đã trở thành hạn chế chính đối với việc phát huy tiềm năng của RCEP. Tỷ lệ áp dụng quy tắc xuất xứ của các nước thành viên ASEAN còn thấp. Ví dụ, theo dữ liệu từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực RCEP năm 2022 là 146,5 tỷ USD, xuất khẩu ưu đãi của Việt Nam vào RCEP đạt 980 triệu USD và tỷ lệ áp dụng các quy tắc xuất khẩu RCEP chỉ đạt 0,67%. Mức này thấp hơn tỷ lệ áp dụng xuất khẩu trung bình của Việt Nam trong các hiệp định thương mại tự do năm 2022 (33,6%).

Tỷ lệ áp dụng quy tắc xuất xứ của Trung Quốc cũng chưa cao. Theo tính toán sơ bộ, tỷ lệ áp dụng các quy định xuất khẩu của doanh nghiệp Trung Quốc trong năm 2022 là 3,56%, tỷ lệ áp dụng các quy định nhập khẩu là 1,03%, và tăng lên lần lượt là 4,21% và 1,46% vào năm 2023. Tỷ lệ áp dụng quy tắc xuất xứ thấp đã hạn chế việc phát huy lợi ích của RCEP. Mặc dù mức độ áp dụng RCEP trong quan hệ thương mại giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cao, nhưng mức độ áp dụng các quy tắc trong quan hệ thương mại với ASEAN lại chưa cao.

Thứ hai, RCEP có tiềm năng lớn để phát huy tối đa vai trò quan trọng của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là động lực quan trọng cho việc triển khai toàn diện RCEP. GDP và giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế tạo Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm hơn 80% của khu vực RCEP, kim ngạch xuất nhập khẩu của các nước này chiếm hơn 50% của cả khối, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển toàn diện RCEP.

Hợp tác kinh tế-thương mại giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc phải đối mặt với sự can thiệp nghiêm trọng từ các yếu tố bên ngoài. Từ tình hình phát triển kinh tế, thương mại trong những năm gần đây, một số nền kinh tế trong khu vực mù quáng nghe theo sự kích động của các nước ngoài khu vực, điều này chắc chắn sẽ làm tăng chi phí hợp tác kinh tế và thương mại trong khu vực và hạn chế việc phát huy tiềm năng tăng trưởng kinh tế khu vực.

Sử dụng hiệp định RCEP để thúc đẩy kết nối các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Năm 2022, giá trị nhập khẩu ưu đãi của Nhật Bản trong khuôn khổ RCEP gần bằng tổng giá trị nhập khẩu trong khuôn khổ Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do EU-Nhật Bản và Hiệp định thương mại tự do Nhật Bản-Mỹ, trong đó 88,5% nhập khẩu ưu đãi đến từ Trung Quốc. Tỷ lệ áp dụng các quy định RCEP của Nhật Bản đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào năm 2022 và tỷ lệ áp dụng quy tắc hàng xuất khẩu của Hàn Quốc sang Nhật Bản vào năm 2023 lần lượt đạt 57% và 68,1%.

Thứ ba, tỷ lệ áp dụng quy tắc thấp cho thấy thiếu cơ chế thúc đẩy toàn diện. Ban thư ký vẫn chưa được thành lập. Hiện nay, nhiều vấn đề quan trọng trong triển khai RCEP chưa thể được quyết định và phối hợp kịp thời, bao gồm các vấn đề như nâng cấp các điều khoản và mở rộng RCEP đều rất khó để thúc đẩy triển khai RCEP một cách hiệu quả, rõ ràng còn thiếu sự phối hợp trong thực thi chính sách. Các diễn đàn, kênh và cơ chế để thực hiện điều phối và kết nối toàn diện chính sách của RCEP cũng vẫn còn thiếu, ngoài ra, còn thiếu sự hỗ trợ trí tuệ đầy đủ cho việc xây dựng kế hoạch phát triển trung và dài hạn. RCEP sẽ bước vào giai đoạn lịch sử quan trọng trong tương lai từ 5-10 năm tới. Hiện tại, cơ chế thúc đẩy toàn diện vẫn chưa được thiết lập, vẫn còn thiếu kế hoạch tổng thể và bố trí tổng thể cho sự phát triển 10 năm tới của RCEP.

Dẫn dắt hội nhập kinh tế châu Á

Với sức sống và động lực phát triển của châu Á, RCEP có những lợi ích tiềm năng rất lớn. Để triển khai toàn diện RCEP phải tập trung vào các mục tiêu và triển vọng hội nhập kinh tế châu Á, đẩy nhanh mức độ mở cửa thị trường trong khu vực, thúc đẩy thực hiện hiệu quả các điều khoản đã có hiệu lực…

Thứ nhất, RCEP tạo sự ổn định quan trọng cho hợp tác và phát triển khu vực. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán, từ năm 2023-2029, GDP của khu vực RCEP sẽ tăng thêm 10.900 tỷ USD, gấp khoảng 1,4 lần GDP của Mỹ và 2,6 GDP của EU trong cùng giai đoạn. Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấy, nếu RCEP được triển khai đầy đủ trước năm 2030, thu nhập của từng nền kinh tế thành viên sẽ tăng 0,6% so với mức hiện tại, tạo ra 245 tỷ USD doanh thu và 2,8 triệu việc làm cho khu vực.

RCEP tạo động lực quan trọng để tăng cường sự gắn kết kinh tế khu vực. Một mặt, hợp tác kinh tế và thương mại Trung Quốc-ASEAN đã được thúc đẩy sâu sắc hơn trong khuôn khổ RCEP. Năm 2022, trong số hàng hóa xuất nhập khẩu của ASEAN từ Trung Quốc, hàng hóa tiêu dùng trung gian lần lượt chiếm 63% và 70%; linh kiện, vật tư, thiết bị vốn sử dụng cho sản xuất trong nước và xuất khẩu chiếm trên 80%.

Các sản phẩm có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất từ ASEAN sang Trung Quốc như động cơ điện, thiết bị điện và linh kiện, lần lượt chiếm 31,7% và 30,7%. Nếu các quốc gia thành viên áp dụng hiệu quả quy tắc cộng gộp xuất xứ của RCEP, có thể nâng cao đáng kể tỷ trọng các thành phần giá trị trong khu vực và mở rộng quy mô thương mại nội khối. Mặt khác, cũng còn rất nhiều dư địa để thúc đẩy quá trình thương mại tự do giữa các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong khuôn khổ RCEP.

Đến năm 2030, RCEP sẽ làm tăng thu nhập thực tế toàn cầu thêm 186 tỷ USD. Dự kiến phần lớn mức tăng thu nhập của RCEP (khoảng 164 tỷ USD) đến từ châu Á, trong đó Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc dự kiến sẽ có mức tăng thu nhập là 156 tỷ USD.

Thứ hai, RCEP là lực lượng quan trọng trong việc thúc đẩy và định hình lại cục diện toàn cầu hóa kinh tế. Việc triển khai chính thức RCEP sẽ tạo nền tảng vững chắc để thúc đẩy hơn nữa hợp tác khu vực, xây dựng khu vực thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương và hiện thực hóa hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời cũng sẽ tạo điều kiện quan trọng để thúc đẩy các cuộc đàm phán về Hiệp định thương mại tự do Trung-Nhật-Hàn. RCEP vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển thực tế, vừa quan tâm đến nhu cầu phát triển của các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất.

RCEP có tiềm năng thương mại và đầu tư lớn, lợi tức tiềm năng lớn từ việc nâng cao tỷ lệ áp dụng quy tắc. Tính toán sơ bộ cho thấy, dựa trên quy mô thương mại hiện tại, nếu tỷ lệ áp dụng các quy tắc của RCEP trong xuất nhập khẩu của Trung Quốc có thể đạt 50% với trình độ hiện tại của Nhật Bản và Hàn Quốc, thì tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu ưu đãi sẽ đạt 3.940 tỷ NDT, và số tiền giảm thuế sẽ đạt khoảng 79 tỷ NDT, cao hơn so với mức hiện tại lần lượt là 9,9 lần và 11,3 lần. Nếu tỷ lệ áp dụng các quy tắc RCEP của Trung Quốc có thể đạt đến mức hiện tại của Nhật Bản và Hàn Quốc, thì tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu ưu đãi sẽ đạt 7.900 tỷ NDT và số tiền cắt giảm thuế sẽ đạt 157,5 tỷ NDT, cao lần lượt gấp 20,9 lần và 23,6 lần so với hiện nay.

Thứ ba, RCEP có thể phát triển thành tổ chức thương mại tự do xuyên khu vực quan trọng. Giương cao ngọn cờ phát triển bao dung và phát triển cùng chia sẻ lợi ích, RCEP sẽ thu hút nhiều nền kinh tế ngoài khu vực tham gia. Hiện tại Hong Kong, Sri Lanka, Chile đã nộp đơn xin tham gia. Bangladesh đang xem xét tham gia RCEP. Khi tham gia RCEP, trước sự kích thích của các biện pháp nâng cao trình độ tự do hóa thương mại hàng hóa và cải cách các thủ tục hải quan thuận lợi hơn, GDP của Hong Kong sẽ tăng thêm 0,87%, cải thiện điều kiện thương mại thêm 0,26%, phúc lợi xã hội tổng thể tăng thêm 3,440 tỷ USD và tăng trưởng nhập khẩu đạt 0,78%, hiệu quả tích cực từ việc gia nhập RCEP đến kinh tế vĩ mô của Hong Kong rất rõ rệt.

RCEP có thể kết nạp thêm thành viên xuyên khu vực. Dựa trên cơ cấu thành viên ban đầu của RCEP, việc mở rộng RCEP sẽ được thúc đẩy kịp thời. Bất kỳ nền kinh tế nào có nguyện vọng tham gia và có thể tuân thủ các quy tắc đều có thể được coi là đối tượng kết nạp tiềm năng.

RCEP định hình lại cục diện kinh tế toàn cầu. Càng có nhiều thành viên thì lợi ích của nguyên tắc cộng gộp xuất xứ của RCEP sẽ càng lớn. Càng có nhiều thành viên thì năng lực bảo vệ thương mại tự do của RCEP càng mạnh mẽ. Cùng với việc RCEP tiếp tục mở rộng, tỷ trọng mật độ dân số, tổng lượng kinh tế và tổng lượng thương mại càng lớn, lợi ích của quy tắc cộng gộp xuất xứ càng rõ ràng hơn, mức độ ưu đãi đối với doanh nghiệp cũng càng lớn hơn.

Thứ tư, sự mở cửa trình độ cao của Trung Quốc sẽ giải phóng tiềm năng hợp tác khu vực to lớn. Sự mở cửa trình độ cao của Trung Quốc sẽ đẩy nhanh tiến trình thực hiện RCEP. Việc mở cửa thị trường của Trung Quốc chứa đựng tiềm năng to lớn cho nền kinh tế khu vực. Tại Hội nghị thượng đỉnh thương mại và đầu tư ASEAN-Trung Quốc năm 2021 kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại Trung Quốc-ASEAN, Trung Quốc đề ra mục tiêu phấn đấu nhập khẩu 150 tỷ USD nông sản chất lượng cao từ ASEAN trong 5 năm tiếp theo.

Tính đến giữa năm 2023, nhập khẩu lũy kế đã vượt 55 tỷ USD, vượt tiến độ dự kiến. Việc mở cửa trình độ cao của thị trường rộng lớn với dân số 1,4 tỷ người sẽ “biến thị trường Trung Quốc trở thành thị trường của thế giới, thị trường chung, thị trường của mọi người”, sẽ tạo động lực quan trọng đối với thị trường lớn châu Á thống nhất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực.

Việc Trung Quốc chủ động mở cửa trình độ cao với ASEAN sẽ tạo hiệu ứng đòn bẩy quan trọng và nâng cao sức sống của RCEP. Lấy việc miễn thị thực đơn phương làm ví dụ, dữ liệu từ Cục quản lý nhập cư quốc gia Trung Quốc cho thấy trong nửa đầu năm 2024, 14,635 triệu người nước ngoài đã nhập cảnh Trung Quốc, tăng 152,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, 8,542 triệu người nhập cảnh miễn thị thực, chiếm 52%, tăng 190,1% so với cùng kỳ năm trước.

Trung Quốc chủ động thực hiện bước đột phá quan trọng trong việc mở cửa thị trường trình độ cao của ASEAN. Thông qua việc đơn phương mở cửa với ASEAN, Bắc Kinh phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành thị trường hàng tiêu dùng lớn nhất của ASEAN vào năm 2030, thúc đẩy mở cửa thương mại dịch vụ và đầu tư vào ASEAN, đẩy nhanh việc hình thành mạng lưới chuỗi cung ứng đa dạng đối với khu vực này.

Trần Quyên

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here