
Với độ mở cao và phụ thuộc khá lớn vào xuất khẩu và thu hút đầu tư, các nền kinh tế Đông Nam Á được nhận định sẽ chịu tác động nhiều mặt từ biến động kinh tế toàn cầu năm 2025, trong đó gia tăng căng thẳng và nguy cơ chiến tranh thương mại là nhân tố tác động lớn nhất.
Theo nhận định của Financial Times, Đông Nam Á – khu vực có liên kết kinh tế chặt chẽ và thường giữ lập trường trung lập về chính trị – đang trở thành nơi thử nghiệm các nỗ lực không chỉ nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của tranh chấp thương mại mà còn tận dụng cơ hội từ xu hướng này.
Một số nhà lãnh đạo Đông Nam Á nhận thấy điều chỉnh chính sách thương mại của các nền kinh tế lớn hiện là cơ hội đẩy mạnh tái công nghiệp hóa. Thái Lan và Malaysia từng được coi là những “con hổ kinh tế mới nổi” tại Đông Nam Á, tuy nhiên dòng vốn FDI vào khu vực đã chuyển hướng từ sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và trước sự vươn lên mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc.
Hiện tại cục diện đã thay đổi. Không chỉ doanh nghiệp phương Tây thực hiện đa dạng hóa đầu tư vào Đông Nam Á mà các công ty Trung Quốc cũng đang mở rộng hoạt động tại khu vực. Theo báo cáo mới của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), vốn FDI vào Đông Nam Á năm 2024 đạt mức kỷ lục 235 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2023 và dẫn đầu khu vực châu Á, trong khi FDI vào Trung Quốc giảm 29% so với năm 2023. Financial Times nhận định Việt Nam đang dẫn đầu thu hút FDI từ nhiều đối tác như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Hồng Công, Đài Loan và Mỹ. Malaysia cũng đang có những cơ hội thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao như chip – bán dẫn và trung tâm dữ liệu, trong khi nhiều tập đoàn lớn đã thiết lập trụ sở chính tại Singapore.
Tuy nhiên, tận dụng hiệu quả dòng vốn FDI vẫn là thách thức với Đông Nam Á. Các doanh nghiệp nước ngoài được nhận định có khả năng tận dụng đòi hỏi các yêu cầu ưu đãi thuế và trợ cấp trong khi nhiều quốc gia khu vực đang chạy đua để thu hút cùng một loại hình đầu tư.
Thách thức nữa là một số hoạt động đầu tư có thể không đóng góp nhiều giá trị kinh tế. Khoảng 25 tỷ USD đã được đầu tư vào trung tâm dữ liệu tại Malaysia, nhưng giá trị thực sự mà doanh nghiệp trong nước nhận được vẫn là câu hỏi. Malaysia có thể hưởng lợi từ các dự án xây dựng và việc bán điện cho các doanh nghiệp đầu tư trung tâm dữ liệu, tuy nhiên các công nghệ hàng đầu như chip và máy chủ đều phải nhập khẩu. Lợi nhuận trong lĩnh vực điện toán đám mây hiện chủ yếu thuộc về các nhà sản xuất chip và phần mềm, thay vì quốc gia sở hữu cơ sở hạ tầng.
Việc đưa Đông Nam Á trở thành mắt xích quan trọng của các chuỗi cung ứng cũng là thách thức do một số doanh nghiệp sản xuất nước ngoài có mức độ tích hợp chiều dọc rất cao, với mạng lưới nhà cung cấp phần lớn vẫn là các doanh nghiệp nội địa, khiến khả năng tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đông Nam Á bị hạn chế.
Theo nhận định của trang tin East Asia Forum, các doanh nghiệp Đông Nam Á đứng trước sức ép gia tăng cạnh tranh từ hàng nhập khẩu nước ngoài đang chuyển dịch vào khu. Tại Indonesia, ước tính có tới 80.000 lao động mất việc làm trong năm 2024 do tác động từ hàng nhập khẩu giá rẻ. Sự phá sản của doanh nghiệp ngành dệt may có quy mô lớn nhất Sritex gần đây do khó khăn trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu đã làm gia tăng yêu cầu bảo hộ sản xuất trong nước từ phía các doanh nghiệp dệt may và một số chính trị gia. Các cơ quan Chính phủ Indonesia đã đề xuất áp mức thuế quan lên tới 200% đối với hàng nhập khẩu từ một nước đối tác, mặc dù biện pháp này đến nay chưa được triển khai. Trong khi đó tại Thái Lan, cơ quan phụ trách lĩnh vực hải quan đã tăng cường các biện pháp giám sát tại các cửa khẩu nhằm ngăn ngừa nguy cơ gia tăng hàng hóa nhập khẩu lẩn tránh thương mại.
Một vấn đề khác là khả năng hàng hóa khu vực bị các nước đối tác gia tăng áp thuế nhập khẩu, nhất là khi thặng dư thương mại giữa Đông Nam Á với một số đối tác lớn tiếp tục gia tăng. Năm 2024, Singapore là nền kinh tế Đông Nam Á duy nhất chịu thâm hụt thương mại với Mỹ, trong khi tổng giá trị thặng dư thương mại của 10 nước ASEAN và Mỹ vẫn tăng trong những năm gần đây.
Đông Nam Á đa dạng hóa đối tác thương mại
Một số nền kinh tế Đông Nam Á như Indonesia đang nỗ lực đa dạng hóa thị trường cũng như bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Indonesia đang thúc đẩy quan hệ thương mại với Mỹ thông qua khuôn khổ Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA), tuy nhiên nước này chưa có thỏa thuận thương mại tự do song phương hoặc hiệp định đối tác kinh tế với Washington. Vừa qua, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Airlangga Hartarto đã đề xuất khả năng Indonesia và Mỹ đàm phán xây dựng hiệp định thương mại tự do song phương hoặc thảo luận các biện pháp cắt giảm thuế quan.
Các quan chức Indonesia cho biết trường hợp hàng hóa xuất khẩu chịu mức thuế quan cao, nước này sẽ đa dạng hóa thị trường hướng đến các đối tác tại châu Á, châu Âu và châu Phi. Indonesia đang tích cực đàm phán các thỏa thuận thương mại song phương, bao gồm hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Canada và Peru trong năm 2025 và xem xét khả năng nối lại đàm phán FTA với EU. Indonesia đã chính thức gia nhập nhóm các nền kinh tế mới nổi BRICS, trong khi Malaysia và Thái Lan được công nhận tư cách nước đối tác của BRICS.
Tại Malaysia, Thủ tướng Anwar Ibrahim cho biết sẽ theo đuổi quan điểm trung lập trước nguy cơ gia tăng căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đồng thời tin tưởng nước này có thể ứng biến với biến động kinh tế toàn cầu nhờ mạng lưới đối tác kinh tế đa dạng. Cùng với các biện pháp đa dạng hóa thị trường, Chính phủ Malaysia cũng ưu tiên phát triển thị trường trong nước và khuyến khích tiêu dùng để hỗ trợ tăng trưởng.
Theo báo cáo của công ty tư vấn BIMP, kinh tế Malaysia có thể chịu tác động nhất định từ các biện pháp thuế quan của các nước đối tác, nhất là đối với các sản phẩm xuất khẩu điện tử, linh kiện ô tô và máy móc vốn phụ thuộc lớn vào các chuỗi cung ứng xuyên quốc gia. Tuy nhiên, Malaysia có thể hưởng lợi từ chiến lược đa dạng hóa địa bàn đầu tư của các tập đoàn toàn cầu. Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ thị trường trong nước của Chính phủ sẽ thúc đẩy cầu tiêu dùng và hạn chế tác động không thuận của các luồng gió ngược từ bên ngoài.
Theo kế hoạch ngân sách năm 2025 của Chính phủ Malaysia, một số biện pháp khuyến khích cầu tiêu dùng bao gồm trợ cấp giá xăng và dầu diesel cho người thu nhập thấp, tăng lương tối thiểu từ 1.500 ringgit lên 1.700 ringgit đối với người lao động tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ tối đa 7.000 ringgit đối với những người lần đầu tiên mua nhà với giá trị không quá 500.000 ringgit… Tổng chi ngân sách của Malaysia năm 2025 sẽ tăng lên 421 tỷ ringgit, cao nhất trong lịch sử, trong đó 335 tỷ ringgit được sử dụng cho hoạt động của khu vực công, trả lãi nợ công và các dịch vụ thiết yếu; 86 tỷ ringgit sẽ được sử dụng phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực công.
(ĐSQVN tại Brunei)