Theo thông cáo công bố của Bộ Tài chính Mỹ mới đây, tổng dư nợ công của Mỹ lần đầu tiên chạm 22,01 nghìn tỷ USD. Con số này tương đương GDP của cả ba nền kinh tế lớn của Thế giới là Trung Quốc, Nhật Bản và Đức cộng lại.
Như vậy, Nợ công của Mỹ đã tăng nhanh hơn kể từ khi đề xuất cắt giảm thuế 1,5 nghìn tỷ USD của Tổng thống Trump được thông qua vào tháng 12/2017 và quyết định của Quốc hội Mỹ hồi năm ngoái tăng chi ngân sách cho các chương trình phúc lợi xã hội và quân sự.
Con số này khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức vào 20/1/2017 là 19,95 nghìn tỷ USD. Văn phòng Ngân sách của Quốc hội Mỹ (CBO) dự báo, thâm hụt ngân sách trong năm 2018 của Mỹ sẽ ở mức 897 tỷ USD, tăng 15,1% so mức thâm hụt ngân sách trong năm ngoái. Trong những năm tới, CBO dự báo thâm hụt ngân sách sẽ tiếp tục tăng lên, tới mức 1 nghìn tỷ USD bắt đầu vào năm 2022 và sẽ không giảm xuống dưới mức này cho tới năm 2029. Phần lớn mức tăng sẽ bắt nguồn từ việc tăng liên tục các chi phí an ninh xã hội và y tế do tiếp tục có nhiều người về hưu. Và theo tính toán của Bộ Tài chính Mỹ, kể từ đầu tháng 2/2019, con số này đã tăng thêm hơn 90 tỷ USD. Ngoài ra, trong 11 tháng qua, nợ quốc gia của Mỹ đã tăng hơn 1.000 tỷ USD.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn kênh Sputnik, Tổng Giám đốc Hội đồng Các vấn đề Quốc tế của Nga, Andrei Kortunov đã đánh giá về sự nguy hiểm mà tốc độ tăng trưởng nhanh của nợ công Mỹ gây ra cho hệ thống tài chính toàn cầu.
Theo phân tích của chuyên gia Kortunov, chính sách tăng nợ công của Mỹ không phải là mới phát sinh ngày hôm qua, đây là cơ chế truyền thống mà Washington sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Cho đến nay, Chính phủ Mỹ có thể xử lý khoản nợ này và sẽ không có chuyện thay đổi trong tương lai gần. Về lâu dài, tất nhiên, điều này tạo ra nguy cơ cho hệ thống tài chính Mỹ và ở một mức độ nào đó sẽ tạo ra nguy cơ đối với hệ thống tài chính toàn cầu.
Theo ông Kortunov, tăng trưởng nợ công Mỹ sẽ là cái cớ để các đối thủ của Tổng thống Mỹ Donald Trump sử dụng nhằm chỉ trích chính quyền.
“Tôi nghĩ rằng, với Tổng thống Trump, nợ công đang gia tăng với tốc độ mà đảng Dân chủ sẽ sử dụng trong chiến dịch bầu cử Tổng thống năm 2020. Nhưng có điều rất đặc trưng là trong tất cả các chu kỳ chính trị gần đây, mỗi ứng cử viên mới đều chỉ trích chính quyền trước đây về việc tăng nợ quốc gia. Nhưng khi lên nắm quyền, mỗi Tổng thống mới lại tiếp tục làm như vậy. Điều này đã trở thành một truyền thống nhất định của Mỹ, tất nhiên, và không thể coi là một truyền thống tốt đẹp”, Ông Kortunov kết luận.
Trong 8 năm cầm quyền của Tổng thống Barack Obama, nợ quốc gia của Mỹ tăng nhiều hơn trong toàn bộ 232 năm lịch sử trước đó của nước này cộng lại. Ông Obama bước vào Nhà Trắng khi nợ quốc gia của Mỹ ở mức 10,6 nghìn tỷ USD, và rời đi khi số nợ đạt mức 19,9 nghìn tỷ USD. Tính trung bình, trong mỗi năm vị Tổng thống Dân chủ đương chức, nợ quốc gia của Mỹ tăng 1,16 nghìn tỷ USD.
Đà đi lên của nợ quốc gia Mỹ được duy trì dưới thời Tổng thống Donald Trump. Kể từ khi ông Trump lên cầm quyền, nợ quốc gia đã tăng 2,06 nghìn tỷ USD, trung bình tăng 991 tỷ USD mỗi năm – thấp hơn chút ít so với mức tăng trung bình thời Obama.
Mới đây, một báo cáo đã đưa ra dự đoán, đến năm 2020, con số nợ của Mỹ sẽ vượt 1.000 tỷ USD và nợ quốc gia sẽ tiếp tục có xu hướng tăng tốc vì chi tiêu của chính phủ hoàn toàn không kiểm soát được.
Theo trang CNBC, mức nợ “khủng” này không gây nguy hiểm trong thời điểm hiện tại, nhưng có thể đặt ra rủi ro không nhỏ đối với nền kinh tế lớn nhất thế giới trong tương lai.
Có hai tiêu chí để đánh giá về mức độ nguy hiểm của nợ quốc gia. Tiêu chí đầu tiên là tỷ lệ phần trăm của nợ quốc gia so với GDP. Đây là một thước đo quan trọng bởi nó đánh giá khả năng trả nợ của Chính phủ dựa trên tăng trưởng kinh tế, mặt khác cũng giúp xác định xem mỗi đồng vay nợ giúp tạo ra bao nhiêu đồng trong nền kinh tế.
Một tiêu chí khác để đánh giá mức độ nguy hiểm của nợ quốc gia là tỷ lệ nợ công (public debt) so với GDP. Theo định nghĩa, nợ công là nợ quốc gia sau khi đã trừ đi các khoản vay giữa các cơ quan chính phủ với nhau, chẳng hạn Chính phủ vay từ các quỹ ủy thác như quỹ An sinh xã hội (Social Security) hay quỹ Bảo hiểm y tế (Medicare).
Chu Văn (theo Sputnik, AP)