Chỉ số hoạt động Logistics (chỉ số LPI) năm 2023 của Việt Nam đứng thứ 43/154 quốc gia và vùng lãnh thổ (theo công bố của Ngân hàng Thế giới) và thuộc nhóm 5 nước dẫn đầu khu vực ASEAN.
Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 với chủ đề “Khu thương mại tự do – Giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics” diễn ra mới đây, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) thông tin, logistics là một ngành dịch vụ thiết yếu, đóng vai trò nền tảng quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân; hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Ngành dịch vụ logistics Việt Nam đã ghi nhận những kết quả tích cực. Đơn cử như: Chỉ số hoạt động Logistics (chỉ số LPI) năm 2023 của Việt Nam đứng thứ 43/154 quốc gia và vùng lãnh thổ (theo công bố của Ngân hàng Thế giới) và thuộc nhóm 5 nước dẫn đầu khu vực ASEAN; xếp thứ 10/50 thị trường logistics mới nổi; tốc độ phát triển ngành logistics ở Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14 – 16%, với quy mô khoảng 40 – 42 tỷ USD/năm.
Về hạ tầng, logistics Việt Nam gồm hạ tầng đường bộ chiếm 61-64% hàng hóa vận tải bằng đường bộ; 3.143 km mạng lưới đường sắt và 277 ga, mật độ đường sắt đạt 9,5 km/1.000 km2, đạt mức trung bình ASEAN và thế giới, xếp 58/141 về mật độ mạng lưới.
Việt Nam có hơn 17 nghìn km đường thủy nội địa đang khai thác; 310 cảng, 6.274 bến thủy nội địa và 18 cảng có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải trên 3.000 tấn, có 20 cảng có khả năng tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài.
Với hệ thống vận tải đường biển, Việt Nam có 286 bến cảng thuộc 5 nhóm cảnh biển, chiều dài cầu cảng xấp xỉ 100 km; 2 cảng biển loại đặc biệt tiếp nhận được tàu container đến 132.000 DWT tại Lạch Huyện, tàu đến 214.000 DWT tại Cái Mép; 1.477 tàu, tổng trọng tải 11,6 triệu DWT, đứng thứ 2 ASEAN và thứ 22 trên thế giới; 32 tuyến, trong đó có 25 tuyến vận tải quốc tế và 7 tuyến vận tải nội địa.
Hiện Việt Nam có 22 cảng hàng không đang khai thác. 69 trung tâm logistics có quy mô lớn và vừa, phân bổ tập trung ở một số khu công nghiệp.
Về doanh nghiệp dịch vụ logistics, hiện có 46.428 doanh nghiệp vận tải, kho bãi; 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 3 PL (cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba);…
Ông Hải cho rằng, ngành logistics đang “mở đường” cho thương mại, sản xuất. Quy mô của ngành dịch vị logistics Việt Nam thể hiện ở lượng hàng hóa vận chuyển và lưu chuyển đều tăng trưởng 2 con số trong 9 tháng đầu năm 2024 và tăng trưởng qua từng năm.
Song song với đó, logistics thúc đẩy liên kết vùng, hiện quy mô thị trường kho Việt Nam đạt 4 triệu m2 sàn, tốc độ tăng trưởng 23%/năm giai đoạn 2020 – 2023. Các kho này đang tập trung ở vùng kinh tế trọng điểm.
Về xu hướng phát triển ngành, theo ông Trần Thanh Hải, sau những biến động chuỗi cung ứng trên thị trường thế giới ngành logistics cũng có những biến chuyển.
“Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc hoặc ngoài Trung Quốc có thể thêm một địa điểm khác để đa dạng hóa cơ sở sản xuất; xu hướng tìm kiếm đến các thị trường gần nguồn tiêu thụ hơn; xu hướng chuỗi cung ứng xanh thể hiện qua các hoạt động vận tải, kho bãi và bao bì.
Ngành logistics là 1 trong 3 ngành có lượng phát thải rất lớn cùng với sản xuất công nghiệp và năng lượng. Trong đó, ngành vận tải chiếm tỷ trọng phát thải lớn nhất khi các phương tiện vận tải đường bộ, đường thủy, đường hàng không tiêu thụ rất nhiều năng lượng.
Vì vậy, xu hướng logistics xanh trước tiên thể hiện ở việc chuyển đổi nguồn năng lượng ít phát thải hơn, sử dụng phương thức tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất vận chuyển”, ông Trần Thanh Hải khẳng định.
Song song với đó, xu hướng ứng dụng công nghệ, tự động hóa cũng đang được diễn ra nhanh và mạnh. Thương mại điện tử hiện đang là hướng chủ đạo và logistics trong thương mại điện tử không thể không áp dụng công nghệ.
Với xu hướng kể trên, để đưa logistics thành ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao, Bộ Công Thương cũng đề ra nhiều nhóm giải pháp.
Về một số các giải pháp đột phá, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh: Thứ nhất, việc sớm hình thành cảng trung chuyển sẽ giúp tận dụng lợi thế về địa chính trị, vừa giúp Việt Nam gia tăng nguồn hàng cho các dịch vụ logistics.
Thứ hai, xây dựng đội tàu quốc gia. Việt Nam chưa có hãng tàu lớn, nhất là các hàng tàu container. Việc xây dựng đội tàu container xứng tầm là việc cần làm. Bên cạnh đó là đội tàu bay vận tải hàng hóa, hiện nhu cầu đối với dịch vụ này đang rất cao, nhất là sau thời kỳ Covid-19.
Thứ ba, đó là xây dựng khu thương mại tự do.
Thứ tư, xây dựng Trung tâm logistics lớn, hiện đại, thông minh, tự động và xanh.
Khánh Ly