Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Nguyễn Thị Hương nhận định, môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định chính trị, xã hội là yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm 2024.
Bức tranh tăng trưởng kinh tế quý III và 9 tháng năm 2024 thế nào, thưa bà?
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III năm 2024 tăng 7,4%, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) tăng 2,58%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm vào tốc độ tăng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; Khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng 9,11%, đóng góp 3,7 điểm phần trăm; Khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 7,51%, đóng góp tăng 3,56 điểm phần trăm.
Tính chung 9 tháng, GDP tăng 6,82%, trong đó: Khu vực I tăng 3,2%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; Khu vực II tăng 8,19%, đóng góp 3,23 điểm phần trăm; Khu vực III tăng 6,95%, đóng góp 3,39 điểm phần trăm.
Khu vực I: Ảnh hưởng của bão số 3 đổ bộ trong tháng 9 đã tác động tới kết quả tăng trưởng chung của khu vực này. Quý III năm 2024, giá trị tăng thêm của khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,58%, chỉ cao hơn cùng kỳ năm 2021 nhưng thấp hơn các năm còn lại của giai đoạn 2020-2023; trong đó hoạt động nông nghiệp tăng thấp nhất (giá trị tăng thêm chỉ đạt 2,03%) trong giai đoạn kể từ năm 2020 đến nay và các quý đầu năm 2024 do nhiều diện tích gieo trồng lúa mùa sắp cho thu hoạch, đàn gia súc, gia cầm ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng bị mất trắng hoặc thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3.
Khu vực II: Khu vực công nghiệp quý III đạt 9,59% là mức tăng cao nhất trong 3 quý kể từ đầu năm (quý I tăng 6,47%; quý II tăng 8,78%). Trong đó, đóng góp lớn nhất về tăng trưởng của khu vực này phải kể đến ngành chế biến chế tạo với tốc độ tăng 11,41%, đây là mức tăng quý 3 cao nhất kể từ năm 2019. Có được mức tăng này một phần do thị trường xuất khẩu trên đà khởi sắc, nhà sản xuất nhận thêm nhiều đơn hàng mới cho những tháng cuối năm, mặt khác đây là con số được tính trên nền tăng trưởng khá thấp của năm 2023 (chỉ tăng 5,59% do năm 2023 ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm).
Trong khu vực này, ngành khai khoáng và ngành điện cũng bị ảnh hưởng do bão Yagi. Hai ngành này có tốc độ tăng lần lượt là -7,09% và 8,06%, thấp hơn mức tăng của quý I và quý II (ngành khai khoáng giảm nhiều hơn so với quý I; ngành điện tăng thấp hơn quý I và quý II).
Tính chung 9 tháng, mặc dù ngành khai khoáng tiếp tục đà giảm âm kể từ năm 2023 nhưng toàn ngành công nghiệp vẫn tăng trưởng tích cực đạt 8,34%.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,76% và ghi nhận nhiều hoạt động có chỉ số sản xuất IIP đạt mức hai con số như: sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng trên 28%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng trên 24%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng trên 18%; sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất tăng trên 16%; sản xuất xe có động cơ, dệt, tăng khoảng 13%; hoạt động sản xuất kim loại, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng khoảng 12%.
Ngành sản xuất, phân phối điện tăng mạnh trên 11%. Ngành Cung cấp nước; quản lý và xử lý rác thải, nước thải cũng đạt tăng trưởng 9,83%, cao nhất so với cùng kỳ các năm từ 2019 trở lại đây.
Khu vực III: Hoạt động dịch vụ tiếp tục có đóng góp lớn nhất trong tăng trưởng kinh tế. Trong đó, một số ngành có tăng trưởng tốt trong quý III gồm: Vận tải kho bãi (tăng 11,07%); Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (tăng 10,17%); Dịch vụ lưu trú, ăn uống (tăng 8,75%); Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy (tăng 7,97%). Ngoài một số ngành dịch vụ chịu tác động trực tiếp của cơn bão số 3 đầu tháng 9 như dịch vụ du lịch, dịch vụ lưu trú ăn uống, vui chơi giải trí thì các ngành dịch vụ khác còn lại vẫn hoạt động ổn định. Tuy nhiên, tháng 9 không phải thời kỳ cao điểm du lịch (cao điểm diễn ra các hoạt động du lịch, lễ hội thường vào trước tháng 9, khi bão chưa xảy ra) do đó, khu vực III không bị ảnh hưởng quá tiêu cực từ cơn bão.
Nhìn chung, trong quý III và 9 tháng năm 2024, nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản bị sụt giảm do ảnh hưởng của yếu tố thời tiết bất thường nhưng được bù đắp bởi mức tăng ấn tượng của ngành công nghiệp, khu vực dịch vụ tiếp tục duy trì mức tăng khá nhờ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ổn định, tạo đà phát triển cho quý IV và cả năm.
Thưa bà, 9 tháng đầu năm, nền kinh tế được hỗ trợ bởi một số yếu tố thuận lợi thế nào?
Những yếu tố thúc đẩy kinh tế 9 tháng qua là:
Thứ nhất, Chính phủ chủ động ban hành các chính sách kích cầu tiêu dùng về giảm, gia hạn thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân.
Thứ hai, kinh tế vĩ mô giữ ổn định, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ kết hợp hiệu quả đã giúp kiểm soát lạm phát ở vùng an toàn, lãi suất điều hành giảm dần là cơ sở để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất.
Thứ ba, thu hút vốn FDI đã tăng trở lại, các nhà đầu tư nước ngoài ổn định sản xuất và mở rộng hoạt động.
Còn những rủi ro thì sao?
Bên cạnh thuận lợi, có 5 rủi ro tác động đến nền kinh tế:
Thứ nhất, hoạt động du lịch đã chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng, chưa thực sự đáp ứng được như kỳ vọng, cần được nghiêm túc khai thác bài bản các sản phẩm du lịch, hiệu quả để tạo cú hích cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, doanh nghiệp vẫn đối mặt với ba vấn đề lớn về thị trường, vốn và pháp lý; một số quy định, thủ tục hành chính, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, điều kiện kinh doanh còn rườm rà, chưa được cắt giảm triệt để.
Thứ ba, doanh nghiệp phải đáp ứng tốt các tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn xanh, phát triển bền vững, tiêu chuẩn môi trường – xã hội – quản trị (ESG)… đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn, trong khi thời gian để chuyển đổi không còn nhiều (nhiều nước dự kiến áp dụng từ năm 2026).
Thứ tư, thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp… đã ổn định hơn, nhưng còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ như: tăng trưởng tín dụng; xử lý nợ xấu, ngân hàng yếu kém, ngân hàng “0 đồng”; tháo gỡ vướng mắc cho các dự án bất động sản, nhất là các dự án lớn; áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp; nâng hạng thị trường chứng khoán…
Thứ năm, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đến con người, hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế.
Bà đánh giá thế nào về tác động của bão Yagi tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024?
Cơn bão số 3 (bão Yagi) đổ bộ vào miền Bắc đầu tháng 9/2024 được đánh giá là cơn bão mạnh nhất trong 30 năm qua. Bão số 3 và hoàn lưu sau bão đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và tình hình sản xuất kinh doanh của 26 tỉnh, thành phố miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng, với mức độ thiệt hại khác nhau.
Nhiều ngành kinh tế đã chịu thiệt hại do gió lốc, ngập lụt, sạt lở đất… nhưng nặng nề nhất là hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nhiều diện tích lúa, hoa màu bị ngập úng; gia súc, gia cầm, thủy sản bị cuốn trôi, bên cạnh đó nhiều công trình giao thông bị lún sụt, sạt lở, cơ sở hạ tầng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều nhà máy bị ngập, tốc mái, hư hại. Theo ước tính sơ bộ ban đầu, bão Yagi gây thiệt hại khoảng hơn 80 nghìn tỷ đồng cho các địa phương miền Bắc.
Trong 3 khu vực kinh tế thì khu vực Nông lâm nghiệp và thủy sản bị ảnh hưởng nặng nề nhất do cơn bão số 3 nhưng do tỷ trọng giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản của 26 tỉnh bị ảnh hưởng của bão chỉ chiếm khoảng trên 20% giá trị tăng thêm cả nước nên tác động tới tăng trưởng toàn ngành của cả nước không cao.
Ngành công nghiệp và xây dựng cũng chịu ảnh hưởng do nhiều công trình thiết yếu, đường sá, cầu cống, hệ thống lưới điện, cấp nước cấp điện bị hư hại nghiêm trọng, tình trạng mất điện, mất thông tin liên lạc trong những ngày mưa bão, ngập lụt làm ngừng trệ sản xuất ở các khu công nghiệp.
Tuy nhiên, những thiệt hại về cơ sở hạ tầng chỉ tính vào thay đổi tài sản của nền kinh tế, không tính vào hoạt động sản xuất trong kỳ nên mức độ thiệt hại cho hoạt động sản xuất cũng không đáng kể. Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất đã chủ động phục hồi sản xuất kinh doanh ngay sau bão để kịp tiến độ các đơn hàng nên công nghiệp chế biến chế tạo vẫn có mức tăng trưởng khá ấn tượng bù đắp những thiệt hại trong ngành nông nghiệp.
Ngành dịch vụ cũng chịu tác động của cơn bão số 3 nhưng mức độ thiệt hại không cao do thời điểm cơn bão diễn ra không phải cao điểm mùa du lịch. Bên cạnh đó, một số ngành dịch vụ có tăng trưởng tốt hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu như vận tải kho bãi, thông tin truyền thông… Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ quý III đạt 7,51%, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế.
Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm nay từ 6,5-7%. Bà nhận định thế nào về mục tiêu này và những giải pháp để “cán đích” tăng trưởng?
Theo nhận định của tôi, trong quý III, với điểm sáng là ngành công nghiệp chế biến chế tạo, ngành dịch vụ duy trì tăng trưởng ổn định, ngành nông lâm thủy sản không bị giảm mạnh đã giúp tăng trưởng kinh tế đạt tăng trưởng 7,4%, phù hợp với mức cận trên của kịch bản phấn đấu theo Nghị quyết của Chính phủ là 6,5-7%.
Trên cơ sở kết quả hoạt động kinh tế quý III và 9 tháng năm 2024, Tổng cục Thống kê nhận thấy, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 2024 theo Nghị quyết Chính phủ từ 6,5-7% là khả thi.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,5% thì quý IV sẽ cần tăng 5,7%; mục tiêu 6,8% thì quý IV cần tăng 6,76%; mục tiêu 7% thì quý IV cần tăng 7,5%. Với kết quả tăng trưởng của quý III và 9 tháng, cùng với nhận định về xu hướng tăng trưởng các tháng cuối năm, tăng trưởng kinh tế cả năm 2024 khả năng cao đạt được mục tiêu cận trên của kịch bản tăng trưởng.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm 2024, tạo đà tăng trưởng cho những năm tiếp theo, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát tốt lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái. Mặc dù thúc đẩy tăng trưởng, nhưng chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách nhằm kiểm soát lạm phát và duy trì mức giá ổn định để đảm bảo sức mua của người dân không bị suy giảm. Đảm bảo nguồn cung ngoại tệ ổn định để tránh biến động tỷ giá ảnh hưởng đến nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng hóa.
Thứ hai, đẩy mạnh tiêu dùng cuối cùng trong nước bằng cách thực hiện có hiệu quả các chương trình kích cầu như giảm giá, khuyến mãi, khuyến khích tiêu dùng, đặc biệt là các mặt hàng sản xuất trong nước, vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử.
Thứ ba, thúc đẩy xuất khẩu và hội nhập quốc tế bằng cách tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế, tìm kiếm đối tác mới và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thứ tư, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, tăng cường tốc độ giải ngân các dự án đầu tư công, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông để tạo động lực cho các ngành liên quan như xây dựng, sản xuất vật liệu, dịch vụ logistics cũng như thúc đẩy thuận lợi trong lưu thông hàng hóa.
Thứ năm, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, giảm chi phí sản xuất. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, công nghệ sạch nhằm đáp ứng tiêu chuẩn môi trường của các thị trường xuất khẩu lớn như EU và Mỹ. Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số trong quá trình sản xuất, kinh doanh và quản lý nhằm tăng năng suất, giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất thông qua các chính sách về thuế, phí, lãi suất.
Thứ sáu, cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính, đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm thiểu các rào cản, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng với nguồn vốn, thị trường và các chương trình hỗ trợ của chính phủ.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp trên tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định chính trị, xã hội là yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm 2024.
Xin cảm ơn bà!
Gia Thành