Học tập kinh nghiệm phát triển đường sắt cao tốc của nước Pháp

0
110
Dù Pháp không phải là nước có tỷ lệ dân số đô thị quá cao, nhưng theo một thống kê, khoảng 89% dân số Pháp sống cách nhà ga dưới 10 km (trong các đô thị như Paris, khoảng cách này nhỏ hơn nhiều). Điều này góp phần không nhỏ vào việc hình thành thói quen và nhu cầu sử dụng đường sắt để di chuyển.
Dù Pháp không phải là nước có tỷ lệ dân số đô thị quá cao, nhưng theo một thống kê, khoảng 89% dân số Pháp sống cách nhà ga dưới 10 km (trong các đô thị như Paris, khoảng cách này nhỏ hơn nhiều). Điều này góp phần không nhỏ vào việc hình thành thói quen và nhu cầu sử dụng đường sắt để di chuyển.
Năm 1981, Pháp đưa vào khai thác tuyến tàu cao tốc TGV đầu tiên nối liền Paris và Lyon. Vận tốc khai thác lúc đó là 260km/h, cùng năm, vận tốc thiết kế và chạy thử đạt kỷ lục thế giới ở mức 380 km/h.

Sự ra đời của TGV mở đầu một giai đoạn phát triển đột phá mới của ngành đường sắt Pháp. Khác với giai đoạn đột phá về hạ tầng nửa cuối thế kỷ 19, TGV đã “thu nhỏ” nước Pháp và thậm chí châu Âu với chỉ 3-4 giờ đi lại. Trong giai đoạn 1990-2010, nhiều tuyến TGV trong nước được khánh thành, đáng chú ý là tuyến Eurostar chạy qua 50 km đường hầm eo biển Manche sang Anh, tuyến Thalys đi sang Bỉ và Hà Lan…

Năm 1997, Nhà nước tách phần quản lý hạ tầng khỏi SNCF bằng việc thành lập Mạng lưới đường sắt quốc gia (RFF). Đây là bước khởi đầu của Pháp khi thực hiện các cam kết về cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải đường sắt trong Liên minh châu Âu (EU). Đến năm 2015, RFF nhập trở lại vào 1 công ty thành viên của SNCF, sau khi đã tách rời phần khai thác thành một công ty con khác độc lập trong tập đoàn.

Năm 2007, Pháp một lần nữa phá kỷ lục thế giới về vận tốc chạy thử của tàu tốc hành ở tốc độ 574,8 km/h. Cho đến nay, đây vẫn là kỷ lục thế giới cho công nghệ tàu chạy trên đường ray. Năm 2020, độc quyền nhà nước về khai thác chạy tàu chính thức kết thúc.

Trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ XX, việc vận hành tuyệt đối an toàn 400 tấn thép trên đường ray ở vận tốc 320 km/h luôn là một biểu tượng công nghệ trong ngành vận tải hành khách mặt đất. Công nghệ TGV được xuất khẩu và chuyển giao đến nhiều nước, trong châu Âu, sang Mỹ, Morocco và cả Hàn Quốc. Đối với người Pháp, TGV là một “niềm tự hào dân tộc”. Theo một thăm dò dư luận trong dân chúng Pháp, TGV được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất trong thế kỷ 20, cùng với máy tính, điện thoại di động và lò vi sóng.

Đối với ngành đường sắt vận tải hành khách, TGV ra đời như một cứu cánh trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng thập niên 1970, sự già cỗi của hệ thống đường sắt truyền thống từ ngót nghét 150 năm khiến đường sắt không còn là lựa chọn số một cho nhu cầu đi lại khi đường bộ cao tốc phát triển mạnh và đường hàng không ngày càng có nhiều phân khúc giá dễ tiếp cận. Trong vận tải hành khách, cái quyết định không nhất thiết là tốc độ di chuyển mà là tổng hòa của thời gian di chuyển, tính tiện nghi, an toàn và dĩ nhiên là giá cả. TGV ra đời đáp ứng một cách hài hòa nhất các yếu tố này. Các tuyến TGV nối trung tâm các đô thị lớn (trong nước Pháp và sau này là châu Âu, cả lục địa và đảo quốc Anh) trong hành trình với thời gian vừa phải, độ an toàn cao, chất lượng dịch vụ tốt.

Đối với những người làm kỹ thuật và công nghệ đường sắt, 20 năm thai nghén, 40 năm khai thác, hoàn thiện và phát triển của TGV đã, đang và sẽ là nguồn cảm hứng cho các sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong rất nhiều lĩnh vực, từ hạ tầng kết cấu, năng lượng, thông tin tín hiệu đến đầu máy toa xe; từ công nghiệp xây lắp chế tạo đến công nghiệp bảo trì bảo dưỡng.

Theo kỹ sư Tạ Quang Anh, lịch sử hình thành và phát triển gần 200 năm là một lợi thế của đường sắt Pháp. Trên thế giới, ngoài Anh, không có quốc gia nào nhiều “tuổi đường sắt” như Pháp. Đây là một lợi thế lớn về mặt kinh nghiệm. Độ che phủ của mạng lưới đường sắt Pháp so với toàn lãnh thổ địa lý ở mức rất cao. Dù Pháp không phải là nước có tỷ lệ dân số đô thị quá cao, nhưng theo một thống kê, khoảng 89% dân số Pháp sống cách nhà ga dưới 10 km (trong các đô thị như Paris, khoảng cách này nhỏ hơn nhiều). Điều này góp phần không nhỏ vào việc hình thành thói quen và nhu cầu sử dụng đường sắt để di chuyển.

Mặt khác, vận tải đường sắt ở Pháp với trên 80% điện khí hóa là ngành vận tải về cơ bản thân thiện với môi trường. Với độ che phủ lớn như trên, trong tương lai trung và dài hạn, với các cam kết giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính của Chính phủ Pháp trong khuôn khổ các hiệp định môi trường toàn cầu, vận tải đường sắt (cả hàng hóa và hành khách) chắc chắn vẫn sẽ là những ưu tiên trọng điểm của chính phủ. Do có hơn 80% mạng lưới đường sắt đã điện khí hóa, với năng lực điện hạt nhân dân dụng của Pháp, ngành đường sắt Pháp có lợi thế rất lớn về chủ động năng lượng so với phần lớn các quốc gia đường sắt.

Tuy nhiên, ngành đường sắt Pháp cũng đối mặt với một số hạn chế. Ví dụ điển hình là ngành đường sắt Anh đã đi vào giai đoạn thoái trào từ cuối thế kỷ XX. Trong trường hợp ngành đường sắt Pháp, về con người, việc thay đổi các thói quen sản xuất không còn phù hợp để ứng dụng các phương tiện và phương thức sản xuất hiện đại, trong rất nhiều trường hợp, gặp các lực cản từ chính các kinh nghiệm cũ. Về hạ tầng, đa phần mạng lưới đường sắt Pháp được thiết kế, xây dựng trước thế kỷ XX. Việc thích nghi với biến đổi khí hậu là một thách thức không nhỏ cho duy tu và bảo dưỡng mạng lưới.

TGV là một phát kiến kỹ thuật có tính kế thừa trên nền hạ tầng đá ballast và tiếp xúc giữa bánh xe và đường ray. Nhưng nếu muốn tăng vận tốc khai thác lên trên 400 km/h, cơ sở hạ tầng như vậy nhiều khả năng không còn phù hợp, nhất là khi đặt lên bàn cân với việc đội giá về chi phí duy tu bảo dưỡng. Dĩ nhiên, vận tốc chạy tàu không phải là một yếu tố tiên quyết, nhưng nếu Pháp quyết định chạy đua theo hướng này thì phải chấp nhận đi chậm hơn các nước khác đã phát triển hoặc được chuyển giao công nghệ hạ tầng đệm từ trường như Đức, Nhật Bản, Trung Quốc.

Mai Ly

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here