Tăng trưởng cả năm 2021 khó đạt mục tiêu đề ra, dù nền tảng vẫn tốt
Mục tiêu năm 2021 mà Quốc hội đề ra là tăng 6% GDP và kế hoạch của Chính phủ là tăng 6,5% GDP trên thực tế cho thấy rất khó khả thi…
Theo Báo cáo Cập nhật Tình hình Kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 10-2021 của Ngân hàng Thế giới (WB), dự báo tăng trưởng GDP cho Việt Nam trong năm 2021 ước chỉ đạt từ 2 – 2,5%, thấp hơn đáng kể so với dự báo 4,8% mà WB đưa ra hồi tháng 8/2021.
Theo Báo cáo cập nhật Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2021 của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) công bố ngày 22-9-2021, kinh tế Việt Nam dự kiến năm 2021 tăng trưởng ở mức 3,8% và đạt 6,5% vào năm 2022, với nông nghiệp tăng 2,7%, bằng với mức năm 2020.
Ngày 13-9, HSBC Việt Nam cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 nằm trong ngưỡng 3,5-4%, hoặc 5-5,5% tùy thuộc vào hiệu quả triển khai tiêm vaccine cho người dân kết hợp mở cửa lại nền kinh tế đúng thời điểm; vào sự phục hồi lại các thị trường xuất khẩu lớn và tiêu dùng nội địa; vào khả năng phục hồi phong độ FDI, sự ổn định chính sách chất lượng nhân lực và phát triển cơ sở hạ tầng…
Theo Báo cáo số 422/BC-CP về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2022 ngày 18-10-2021 của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, ước thực hiện cả năm 2021: GDP tăng trưởng khoảng 3,5-4% (có 8/12 chỉ tiêu đạt mục tiêu kế hoạch đề ra), trong đó khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 41,2% GDP; khu vực nông nghiệp chiếm khoảng 12,3-12,4% GDP; khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 37,5-37,6%.
CPI bình quân tăng dưới 4% so với bình quân năm 2020, đạt mục tiêu đề ra; Thặng dư cán cân thanh toán quốc tế khoảng 9 tỷ USD; Tỷ giá ngoại tệ khoảng 22.800 VNĐ/USD; Thu NSNN đạt khoảng 1.365,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% so dự toán, bằng 90,6% so thực hiện năm 2020; Chi NSNN đạt 1.709,2 nghìn tỷ đồng, bằng 101,3% dự toán. Bội chi NSNN khoảng 4% GDP trong phạm vi dự toán; Nợ công khoảng 43,7% GDP; Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm đạt khoảng 2.919,1 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với năm 2020, bằng khoảng 35% GDP.
Dòng vốn FDI thực hiện dự kiến cả năm đạt 19-20 tỷ USD; Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt khoảng 628 tỷ USD, tăng khoảng 15% so với năm 2020, trong đó xuất khẩu đạt khoảng 313 tỷ USD, tăng khoảng 10,7% và nhập siêu cả năm khoảng 02 tỷ USD; Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả năm là 5.266 nghìn tỷ đồng, tăng 4,1% so với năm 2020; Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD có xu hướng tăng lên mức 1,67%-1,95%) so với mức 1,69% vào cuối năm 2020); tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay, đầu tư ở mức 3,58%-3,89%. Nếu tính cả dư nợ được cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC và các khoản nợ tiềm ẩn ước tính ở mức 6,98%-7,29%.
Việc xử lý các ngân hàng yếu kém còn nhiều khó khăn, vướng mắc; Điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt khoảng 266,3 tỷ KWh, tăng 7,8% so với năm 2020; điện thương phẩm đạt khoảng 231,3 tỷ KWh, tăng 6,6%; Sản lượng lúa đạt khoảng 43,51 triệu tấn, tăng 1,7% so với năm 2020; Sản lượng ngô đạt khoảng 4,23 triệu tấn, giảm 7,9%; Sản lượng thịt hơi các loại đạt khoảng 5,67 triệu tấn, tăng 5,3%; Sản lượng thủy sản đạt khoảng 8,6 triệu tấn, tăng 2,4%. Cả nước có 46 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 4,3% so với năm 2020; có 27.855 HTX (tăng 6,7% so với năm 2020), 110 liên hiệp HTX và 109,9 nghìn tổ hợp tác; Tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới khoảng 110 nghìn doanh nghiệp, giảm 18,5% so với năm 2020, với số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế đạt khoảng 3,5 triệu tỷ đồng, giảm 36,5%, trong đó số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới là gần 1,5 triệu tỷ đồng, giảm 31%.
Trong khu vực kinh tế tập thể, HTX, doanh thu bình quân của một HTX/năm ước đạt 4.354 triệu đồng, giảm 33 triệu đồng (tương ứng giảm 0,8%) so với năm 2020; thu nhập bình quân của một lao động thường xuyên trong HTX ước đạt 46 triệu đồng/người, giảm 5 triệu đồng/người (tương ứng giảm 10,3%). Cả nước có khoảng 49,3 triệu lao động đang làm việc trong nền kinh tế, giảm 1,4% so với năm 2020; tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị dưới 4%, đưa khoảng 60 nghìn (giảm so với năm 2020 là 78,6 nghìn) lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, tiếp đến là Trung Quốc, EU, ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản; thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Nhật Bản, EU, Mỹ; tiếp tục xuất siêu chủ yếu sang Mỹ, EU và nhập siêu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Nhật Bản. Tỷ trọng xuất khẩu khu vực FDI còn cao (Ước cả năm, xuất khẩu sang Mỹ khoảng 96,3 tỷ USD, tăng 25%; sang Trung Quốc khoảng 52,8 tỷ USD, tăng 8%; sang EU (EU 27) khoảng 39,7 tỷ USD, tăng 13%; sang ASEAN khoảng 25,5 tỷ USD, tăng 10,2%; sang Hàn Quốc khoảng 20,6 tỷ USD, tăng 7,8% và sang Nhật Bản khoảng 20,1 tỷ USD, tăng 4%. Nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc khoảng 116,3 tỷ USD, tăng 38,1%; từ Hàn Quốc khoảng 50,7 tỷ USD, tăng 8,1%; từ ASEAN khoảng 36 tỷ USD, tăng 18,1%; từ Nhật Bản khoảng 22,2 tỷ USD, tăng 10%; từ EU khoảng 16,7 tỷ USD, tăng 13,8% và từ Mỹ khoảng 15,3 tỷ USD, tăng 11,9%.)
Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 40,5%; Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt khoảng 68%. Tỷ lệ dân cư khu vực thành thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 92%, đạt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 2%, tương đương giảm hơn 0,75 điểm % so với cuối năm 2020. Độ bao phủ bảo hiểm xã hội đạt khoảng 35-36%, bảo hiểm thất nghiệp đạt khoảng 28-29% lực lượng lao động trong độ tuổi, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ; bao phủ bảo hiểm y tế đạt 91% dân số, đạt mục tiêu đề ra; Tỷ lệ KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 91%, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao (khoảng 91%); tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoàn thành xử lý triệt để tăng 8,8%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ước đạt 87,2%, vượt chỉ tiêu Quốc hội (87%).
Về tổng thể, các điều kiện nền tảng vẫn vững mạnh, lượng dự trữ ngoại hối tăng cao, tiền tệ ổn định, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, dòng vốn FDI tiếp tục tăng và tập trung vào lĩnh vực sản xuất. Các tập đoàn lớn của thế giới, châu Âu, Nhật Bản (tiêu biểu như Apple, Foxconn, Intel) vẫn tiếp tục đánh giá cao tiềm năng thị trường rộng mở và coi Việt Nam là địa chỉ rất tốt để đầu tư, mở rộng sản xuất tiếp và dịch chuyển chuỗi ung ứng.
Động lực tăng trưởng cuối năm 2021 được hỗ trợ bởi sự phục hồi của cầu nội địa, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, mở rộng thị trường xuất khẩu mới do các hiệp định thương mại mang lại, và sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, nhất là xuất khẩu nông sản, hàng dệt may và giày dép, điện tử và điện thoại di động vào Liên minh châu Âu, Trung Quốc và Mỹ -những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước đã gia tăng hạn mức tín dụng cho một số ngân hàng thương mại từ 10%-12% lên 14%-15% trong năm 2021 và 16 ngân hàng thương mại đã tiến hành giảm lãi suất trên các khoản vay hiện tại nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về dòng tiền. Cả nước đề xuất bãi bỏ, đơn giản hóa 120/166 thủ tục hành chính, cắt giảm 21,2% chi phí tuân thủ quy định.
Năm 2021 Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới được cả ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm gồm Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch đồng loạt nâng cấp độ triển vọng từ “ổn định” lên “Tích cực” kể từ khi đại dịch bùng phát.
Hơn nữa, World Travel Awards (Giải thưởng du lịch thế giới) trong tháng 10/2021 đã công bố các giải thưởng năm 2021, trong đó Việt Nam được vinh danh là Điểm đến hàng đầu châu Á. Đây là danh hiệu Việt Nam từng đạt được năm 2018 và 2019. Ngoài ra, Việt Nam còn được tôn vinh là Điểm đến du lịch bền vững hàng đầu châu Á. Một số điểm đến của Việt Nam cũng được World Travel Awards vinh danh, như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đoạt giải Điểm tham quan hàng đầu châu Á; TP Hội An (Quảng Nam) chiến thắng ở hạng mục Điểm đến đô thị văn hóa hàng đầu châu Á và Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) được trao giải Công viên quốc gia hàng đầu châu Á.
Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì ở trạng thái tốt để phục hồi vững chắc trong vòng một đến hai năm tiếp theo nhờ vào các giải pháp hiệu quả cao của chính phủ để kiềm chế dịch Covid-19 trong nước, vị thế điểm đến hàng đầu trong Đông – Nam Á về thu hút FDI, xuất khẩu tăng trưởng ổn định, nhu cầu nội địa mạnh mẽ và vị thế đối ngoại vững chắc; tài khóa, nợ công tiếp tục giữ vững tính hiệu quả và linh hoạt, góp phần hỗ trợ kiểm soát đại dịch.
Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy các xu hướng tự động hóa và số hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ, nhất là công nghệ hỗ trợ sẽ càng được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là cơ hội cho doanh nghiệp tìm những hướng đi mới hiệu quả hơn để hoạt động trong bối cảnh dịch COVID-19 tác động mạnh mẽ.
Tuy nhiên, quá trình khôi phục các hoạt động kinh tế sau giãn cách xã hội kéo dài có thể phải đối mặt với một số trở ngại, như sự gián đoạn chuỗi cung ứng và những nút thắt về logistics; thiếu hụt lao động; sự cứng nhắc về thủ tục trong thực hiện ngân sách chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, hỗ trợ người lao động và các doanh nghiệp để tái khởi động các hoạt động kinh doanh sau một thời kỳ dài đóng cửa, đặc biệt trong ngành dịch vụ du lịch, ăn uống và lưu trú…
Nhiều động lực và cải thiện kết quả tăng trưởng kinh tế năm 2022
Năm 2022, Việt Nam sẽ có nhiều cải thiện cả về động lực và kết quả phục hồi, phát triển kinh tế so với năm 2021.
Với kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên; khả năng chủ động sản xuất được vắc-xin sẽ sớm đảm bảo mục tiêu tiêm vắc-xin cho toàn dân, giúp đất nước trở lại trạng thái bình thường và nền kinh tế mau chóng hồi phục. Việc hoàn thành bao phủ vắc-xin cuối năm 2021, hoặc chậm nhất vào đầu năm 2022 là một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế.
Nhìn chung, quá trình phục hồi kinh tế năm 2022 sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức điểm nghẽn, nút thắt cần được giải quyết, trong bối cảnh dịch bệnh còn phức tạp và kinh tế thế giới chưa thực sự thoát khỏi khó khăn. Việt Nam tiếp tục đối diện với sự gia tăng áp lực lạm phát, trần nợ công và nợ xấu ngân hàng, những hạn chế về khả năng đáp ứng nhân lực, trang thiết bị, hạ tầng của hệ thống y tế cơ sở, trong khi số lượng người cần được hỗ trợ y tế, an sinh xã hội là rất lớn. Việc phục hồi sản xuất, kinh doanh có thể bị cản trở bởi khó khăn về tài chính (kì hạn trả nợ vay, kì hạn nộp thuế) và thị trường tiêu thụ. Tỷ lệ tín dụng so với GDP vẫn ở mức cao, vốn trung, dài hạn của nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào hệ thống ngân hàng.
Theo WB, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư trong trung hạn. Các điều kiện nền tảng vững mạnh của Việt Nam sẽ giúp các nhà đầu tư gạt bỏ những biến động ngắn hạn do COVID-1. Trong nội tại nền kinh tế, tiêu dùng nội địa và đầu tư công vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong phục hồi tăng trưởng kinh tế năm 2022. Tiêu dùng nội địa, vốn đóng góp khoảng 68-70% trong GDP, có khả năng phục hồi nhờ yếu tố tâm lý thị trường và thu nhập được cải thiện. Bên cạnh đó, khu vực tư nhân và FDI có cơ hội phục hồi sản xuất kinh doanh nhờ sự hồi phục cả phía cung, phía cầu, sự thích ứng của khu vực doanh nghiệp và các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ. Khu vực CNXD và dịch vụ được kì vọng đạt mức tăng trưởng cao hơn từ mức tăng trưởng thấp của năm 2020 nhờ sự phục hồi của thị trường tiêu thụ và các nguồn cung ứng.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, bán buôn, bán lẻ và vận tải, kho bãi được kì vọng phục hồi mạnh, trở lại vai trò dẫn dắt, động lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2022. Việt Nam cần tăng cường khả năng phục hồi thông qua một hệ thống trợ giúp xã hội mạnh mẽ và linh hoạt trên cơ sở phân bổ thêm vốn cho các chương trình trợ giúp xã hội; xây dựng một cơ quan đăng ký xã hội quy mô lớn và áp dụng kỹ thuật số, để nhanh chóng xác định những người dễ bị tổn thương; mở rộng quy mô thanh toán điện tử, để tiếp cận một cách hiệu quả những người thụ hưởng đã được xác định.
Báo cáo của Chính phủ về Kế hoạch phát triển KT – XH năm 2022 (dự thảo) xác định: đặt mục tiêu tổng quát “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của nhân dân”, cùng với “tận dụng tốt các cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển KT-XH với các giải pháp tổng thể”. Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế; ưu tiên rà soát, hoàn thiện về thể chế và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; phấn đấu GDP tăng 6-6,5%, tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%; bội chi ngân sách Nhà nước khoảng 4% GDP… trong cả năm 2022; bảo đảm gắn chặt với việc xây dựng và thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế đã được Quốc hội yêu cầu xây dựng tại Nghị quyết số 16/2021/QH15 về kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2021-2025.
Trong bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được đặt ra là tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch vừa phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm sức khỏe, tính mạng nhân dân và an sinh xã hội; thực hiện tốt công tác xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp; kiểm soát lạm phát, hạn chế nợ xấu phát sinh, duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3%; đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công và xây dựng kết cấu hạ tầng; chú trọng đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nhân lực; phát triển kinh tế số, xã hội số nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng để phục hồi và phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới.
Các chính sách hỗ trợ phát triển cần chú ý tạo động lực kích thích cho cả tổng cung và tổng cầu; củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô và thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế sâu rộng hơn, tạo thêm “sức bật” cho doanh nghiệp; Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch; Gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam; chú trọng thực hiện chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao năng lực hệ thống y tế
Việc vận dụng các chính sách kinh tế vĩ mô cần linh hoạt theo các kịch bản để ứng phó với các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới và khu vực; đẩy mạnh đa dạng hóa xuất khẩu, đáp ứng và khai thác các cơ hội mới từ các FTA quan trọng (như CPTPP, EVFTA); nghiên cứu, khuyến khích các mô hình kinh tế mới và mở rộng không gian kinh tế trong nước và tham gia sâu hơn vào cấu trúc đầu tư, trật tự thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là chuyển đổi số, thu hút hợp tác về cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường xuất khẩu…/.
TS. Nguyễn Minh Phong
BOX
Dự kiến kế hoạch năm 2022 Việt Nam có:
* 16 chỉ tiêu chủ yếu, gồm: 15 chỉ tiêu có thể đánh giá theo định kỳ hằng năm trong hệ thống 23 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 được Đại hội Đảng XIII, Quốc hội khóa XV thông qua và bổ sung 01 chỉ tiêu Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân. Cụ thể:
1- Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt khoảng 6-6,5%.
2- GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3.900 USD.
3- Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,5-25,8%.
4- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%.
5- Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP khoảng 4 %.
6- Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 3,5-4%.
7- Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt khoảng 27,5%.
8- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 67%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27-27,5%.
9- Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.
10- Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm khoảng 1-1,5%.
11- Số bác sĩ trên 1 vạn dân đạt khoảng 9,4 bác sĩ/1 vạn dân.
12- Số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt khoảng 29,5 giường bệnh/1 vạn dân
13- Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 92% dân số.
14- Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới khoảng 73%.
15- Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt khoảng 89%.
16- Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt khoảng 91%.
*5 cân đối lớn, gồm:
- Cân đối tích lũy – tiêu dùng: Quy mô GDP đạt khoảng 9,12 – 9,17 triệu tỷ đồng, tiêu dùng cuối cùng bằng khoảng 68% GDP, tỷ lệ tích lũy tài sản bằng khoảng 32% GDP.
- Cân đối NSNN: Tổng thu cân đối NSNN đạt khoảng 1.411,7 nghìn tỷ đồng; tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 15,1% GDP, riêng động viên thuế và phí đạt 12,7% GDP. Tổng chi cân đối NSNN đạt khoảng 1.784,6 nghìn tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển khoảng 516,1 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29%. Bội chi NSNN khoảng 372,9 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 4% GDP.
- Cân đối xuất, nhập khẩu: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt khoảng 660,8 tỷ USD, tăng khoảng 5,2% so với năm 2021, trong đó: kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt khoảng 329,9 tỷ USD, tăng khoảng 5,4% so với năm 2021. Cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu khoảng 1 tỷ USD.
- Cân đối điện: Tổng công suất nguồn điện (không bao gồm điện mặt trời mái nhà) đạt khoảng 70-71 nghìn MW, tăng khoảng 3,5-4% so với năm 2021; sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt khoảng 291,8-293,7 tỷ KWh, tăng khoảng 9,6-10,3%; sản lượng điện thương phẩm đạt khoảng 250,7-252,3 tỷ KWh, tăng khoảng 8,4-9,1%.
- Cân đối lương thực: Sản lượng lúa cả năm đạt khoảng 43,18 triệu tấn, giảm khoảng 0,8% so với năm 2021, sản lượng ngô đạt khoảng 4,66 triệu tấn, tăng khoảng 10%. Sản lượng thịt hơi đạt gần 6 triệu tấn, tăng khoảng 5,5%, trong đó sản lượng thịt lợn đạt khoảng 3,8 triệu tấn, tăng khoảng 5,1%. Sản lượng sữa tươi đạt khoảng 1,3 triệu tấn, tăng khoảng 9%. Sản lượng trứng đạt khoảng 16,4 tỷ quả, tăng khoảng 5,5%. Sản lượng thủy sản đạt khoảng 8,7 triệu tấn, tăng khoảng 1,5%, trong đó: sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt khoảng 5 triệu tấn, tăng 5,5%; sản lượng thủy sản đánh bắt đạt khoảng 3,7 triệu tấn, giảm 3,5%.