Theo Diễn đàn Đông Á (East Asia Forum), sau hai năm suy thoái kinh tế do COVID gây ra, Việt Nam đã phục hồi trở lại vào năm 2022 với thành tích mạnh mẽ – GDP tăng hơn 8%. Vào năm 2023, Chính phủ hy vọng rằng nền kinh tế toàn cầu và nền Trung Quốc phát triển mạnh mẽ hơn sẽ tạo thuận lợi để tiếp tục tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, bao gồm tăng trưởng về du lịch và các dịch vụ liên quan. Các dự báo hoặc hy vọng về mức tăng trưởng GDP đạt từ 6 – 7%.
Nhưng cả thế giới và Trung Quốc đều cho thấy nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam năm vừa qua ít hơn kỳ vọng. Giờ đây, ngay cả Thủ tướng Việt Nam cũng đề xuất mức tăng trưởng “khoảng 5%”, gần với mức 4,7% mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính cho năm 2023. Xuất khẩu giảm 5,7% trong 11 tháng đầu năm 2023. Đối với một nền kinh tế có xuất khẩu gần bằng GDP, điều này tạo ra một vấn đề tăng trưởng lớn.
Tính đến tháng 11 năm 2023, doanh thu du lịch tăng 50%, nhưng điều này không đủ để bù đắp cho sự yếu kém trong tăng trưởng sản lượng công nghiệp, chỉ ở mức 1%. Trong khi các yếu tố bên ngoài góp phần đáng kể khiến tốc độ tăng trưởng chậm hơn, thì các vấn đề về cung cấp điện cũng góp phần khiến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trưởng chậm lại. Tình hình thu hút FDI chỉ tăng 2,9%, có thể là một sự sụt giảm nhẹ nếu tính theo giá trị thực.
Chính phủ đã thành công trong một số điều khi cố gắng tăng đầu tư công lên hơn 20%, cung cấp cơ sở hạ tầng tốt hơn và nhu cầu nhiều hơn. Việt Nam giữ được lạm phát trong tầm kiểm soát và hệ thống ngân hàng lành mạnh, mặc dù các vấn đề trong lĩnh vực bất động sản tiếp tục đè nặng lên đầu tư, niềm tin và tính thanh khoản của một số ngân hàng bị ảnh hưởng. Nhiều công ty phát triển bất động sản gặp khó khăn trong việc hoàn trả hoặc tái cấp vốn cho trái phiếu doanh nghiệp của họ.
Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden và việc nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ lên mức tương đương với Trung Quốc đã khuyến khích các đối tác FDI lân cận và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, việc Intel quyết định không mở rộng các cơ sở lắp ráp và thử nghiệm chip tại Việt Nam cho thấy rằng mặc dù kỹ năng chính trị là cần thiết nhưng chưa đủ để thu hút các khoản đầu tư chất lượng cao hơn mà Việt Nam mong muốn. Việc Chính phủ chú trọng sản xuất chip máy tính, tuy có thể hiểu được, nhưng có thể dẫn đến tiến bộ chậm hơn trong lĩnh vực an ninh mạng và trí tuệ nhân tạo.
Một vấn đề lớn hơn đối với cả FDI và tăng trưởng kinh tế nói chung là tình trạng tương đối yếu kém của khu vực tư nhân và tình trạng thiếu lao động lành nghề cần thiết để thay thế các công việc lắp ráp đơn giản trong nhà máy. Intel quyết định không mở rộng tại Việt Nam do lo ngại về nguồn điện ổn định, thủ tục hành chính và trình độ kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp tại đại học của Việt Nam. Việc mất đi sự mở rộng của một công ty lớn và tình hình hiện tại sẽ khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiến xa hơn trong chuỗi giá trị cho tới sản xuất chip.
Các vấn đề về năng lượng đặc biệt đáng ngạc nhiên vì Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã lên kế hoạch tăng trưởng nhu cầu 8% hàng năm, trong khi lượng điện sử dụng thực tế kể từ năm 2019 chỉ tăng khoảng một nửa. Công suất phát điện dư thừa nhưng lại thiếu than, dẫn đến việc sử dụng quá mức thủy điện, các vấn đề về bảo trì và thiếu công suất truyền tải dẫn đến tình trạng thiếu điện.
Trong khi có thêm nhiều đường dây truyền tải điện được lên kế hoạch, danh tiếng của Việt Nam đã bị tổn hại thể hiện ở mức tăng trưởng chậm của vốn FDI. Công suất truyền tải cao hơn sẽ cho phép tăng cường sử dụng điện tái tạo từ miền Trung Việt Nam, nơi có nguồn tài nguyên năng lượng mặt trời và gió thuận lợi. Điều này có thể quan trọng nếu giá nhiên liệu tăng trở lại do tình trạng thiếu hụt ở châu Âu. Với mô hình thời tiết El Nino đe dọa hạn hán ở Đông Nam Á, nhiều năng lượng tái tạo hơn sẽ cho phép sử dụng lượng thủy điện đáng kể. Điều này sẽ tạo ra một hệ thống điện sạch và mạnh mẽ hơn.
Nếu Việt Nam có thể cải thiện vấn đề về năng lượng, đào tạo và cơ sở hạ tầng mềm, GDP của nước này sẽ có thể tăng trưởng ít nhất 6% mỗi năm trong thời gian còn lại của thập kỷ này. Đối với năm 2024, mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ là 6 đến 6,5%, tương tự như dự báo của Ngân hàng Phát triển Châu Á vào tháng 7 năm 2023. Trong khi một số dự báo thấp hơn – Fitch dự báo 5,5% do dự kiến xuất khẩu yếu – việc tiếp tục chuyển một số sản phẩm xuất khẩu ra khỏi Trung Quốc sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam phục hồi.
Nhưng có thể sẽ có những trở ngại đáng kể nếu cả Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu rơi vào suy thoái hoặc tăng trưởng rất chậm, hoặc nếu nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục làm giảm chi tiêu của người tiêu dùng và du lịch. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động đang chậm lại và lao động dư thừa từ khu vực nông thôn đang giảm dần. Hầu hết sự tăng trưởng sẽ phải đến từ việc tăng vốn trên mỗi lao động và tăng năng suất. Điều này sẽ phụ thuộc vào sự tăng trưởng của khu vực tư nhân của Việt Nam. Tỷ trọng GDP của nước này chỉ khoảng 11%, thấp hơn nhiều so với mức 30-50% ở Thái Lan và Trung Quốc.
Nhìn chung, 2023 là một năm chuyển tiếp đáng thất vọng đối với Việt Nam. Nếu nền kinh tế toàn cầu phục hồi khi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương ngừng thắt chặt và nới lỏng dần, thì tình hình năm 2024 sẽ khả quan hơn./.