Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez và cuộc đọ sức nước lớn

0
120
(Nguồn: Maxar)

Sự cố siêu tàu Ever Given mắc kẹt ở kênh đào Suez không những khiến cho nền kinh tế của Mỹ và châu Âu vốn đã ảm đạm do dịch COVID-19 trở nên mịt mờ hơn, mà còn ảnh hưởng đến việc triển khai chiến lược, bố trí lực lượng của Mỹ ở khu vực Trung Đông.

Sự cố siêu tàu Ever Given bất ngờ bị mắc kẹt ở kênh đào Suez 6 ngày 6 đêm. (Nguồn: Maxar)

Sự cố siêu tàu Ever Given bất ngờ bị mắc kẹt ở kênh đào Suez 6 ngày 6 đêm mới được giải cứu, dẫn tới việc hàng trăm tàu bị dồn ứ ở hạ và thượng lưu của kênh đào này đã khiến chuỗi cung cứng toàn cầu bị tác động, đồng thời làm cho mọi người phải đánh giá lại ý nghĩa chiến lược địa chính trị của kênh đào này.

Sự cố lần này không những khiến cho nền kinh tế của Mỹ và châu Âu vốn đã ảm đạm do dịch COVID-19 trở nên mịt mờ hơn, mà còn ảnh hưởng đến việc triển khai chiến lược, bố trí lực lượng của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Lý do là nhóm tác chiến tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân USS Dwight D. Eisenhower muốn đến vịnh Persian bị mắc kẹt ở Địa Trung Hải, không thể đi qua kênh đào Suez để tiến vào Biển Đỏ, sau đó xuyên qua eo biển Hormuz tiến vào vịnh Persian để răn đe Iran theo kế hoạch.

Một mặt, việc tàu USS Dwight D. Eisenhower không thể thực hiện vai trò răn đe cũng khiến Mỹ nhất thời rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan khi không có một tàu sân bay nào có thể thực thi nhiệm vụ chiến đấu ở khu vực Trung Đông. Mặt khác, Iran đã ký hiệp định hợp tác 25 năm với Trung Quốc vào ngày 27/3, nâng quan hệ hai nước lên tầm đối tác toàn diện. Bên cạnh đó, có thông tin cho rằng Nga đã quyết định xây dựng căn cứ tiếp tế ở gần vùng biển Sudan. Sudan và Ai Cập tiếp giáp nhau, gần Biển Đỏ, rõ ràng huyết mạch giao thông trên biển này là nhân tố không thể tách rời trong cuộc đọ sức nước lớn. Điều này đặt ra mối đe dọa mới đối với các hoạt động vận tải biển qua kênh đào Suez.

Tầm quan trọng của kênh đào Suez được thể hiện rõ nét trong Chiến tranh Ai Cập-Israel lần thứ hai vào năm 1958. Mặc dù xung đột diễn ra ở Ai Cập, nhưng lại là sự kiện điển hình của một cuộc cạnh tranh nước lớn. Khi đó, để tranh giành quyền kiểm soát kênh đào Suez, Anh và Pháp đã phối hợp với Israel phát động chiến tranh xâm lược đối với Ai Cập. Mỹ đã phát huy vai trò cân bằng vô cùng quan trọng trong suốt cuộc khủng hoảng, và Tổng thống Mỹ khi đó là Dwight D. Eisenhower đã áp dụng chính sách giải quyết khủng hoảng bằng phương thức hòa bình, có những đóng góp quan trọng cho việc chấm dứt xung đột, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

65 năm sau, tàu sân bay được đặt tên để tưởng nhớ Dwight D. Eisenhower lại gặp một cuộc khủng hoảng kênh đào khác, và đây có thể nói là một sự trùng hợp của lịch sử. Điều khác biệt là Dwight D. Eisenhower đã chớp thời cơ để thể hiện kỹ năng ngoại giao siêu việt, trong khi tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower lại không thể phát huy vai trò của nó.

Sau khi siêu tàu Ever Given bị mắc kẹt ở kênh đào Suez, truyền thông thế giới đã có những bình luận đáng chú ý: Tờ Wirtschaftswoche của Đức đã nhắc lại giai đoạn lịch sử này và nhấn mạnh “mặc dù thời đại đã thay đổi, nhưng tầm quan trọng của kênh đào vẫn còn nguyên giá trị”. Bloomberg cho rằng vị trí yết hầu vận tải đường biển của kênh đào Suez rất dễ bị tấn công trong các cuộc xung đột quốc tế, một khi bị phong tỏa hoặc cắt đứt sẽ khiến nhiều nền kinh tế bị tê liệt. Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng gay gắt, cuộc khủng khoảng kẹt tàu ở kênh đào Suez có thể khiến mọi người nếm trải mùi vị của cái gọi là Chiến tranh Lạnh mới; Tạp chí Foreign Affairs của Mỹ nhấn mạnh có một lý do khác khiến kênh đào Suez quan trọng đối với Mỹ, đó là do nó kết nối chặt chẽ giữa Mỹ và Ai Cập. Tờ New York Times lại cho rằng khi Mỹ tìm kiếm lợi ích an ninh quốc gia ở khu vực Trung Đông, Ai Cập sẽ cung cấp một số hỗ trợ mà thế giới bên ngoài khó nhìn thấy, đơn cử như việc tàu chiến của Mỹ có thể được ưu tiên đi qua kênh đào Suez khi gặp khủng hoảng. Nếu không có sự hợp tác của Ai Cập, nhiệm vụ quân sự của quân đội Mỹ sẽ gặp khó khăn.

Bộ phim tài liệu “Tàu sân bay tham chiến: Lực lượng tấn công vịnh Persian” được phát lại trên kênh truyền hình Smithsonian gần đây đã giới thiệu chi tiết hành trình của tàu sân bay USS George H.W. Bush từ Địa Trung Hải đi qua kênh đào Suez đến vịnh Persian để hỗ trợ lực lượng mặt đất tiêu diệt phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) vào tháng 4/2017.

Hành trình này thực sự không đơn giản: Tàu sân bay đồ sộ chỉ có thể di chuyển với tốc độ chậm trên kênh đào, hơn nữa phải tuân theo hoa tiêu dẫn đường của Ai Cập, đồng thời phải đi theo thời gian biểu quy định. Điều này đồng nghĩa với việc thời gian mà nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ đi qua kênh đào phải mất ít nhất 16 tiếng. Ngoài ra, do hai bên kênh đào đều là sa mạc, cách tàu sân bay chỉ khoảng 100-200 m, rất dễ bị tấn công bởi các tay súng bắn tỉa được trang bị tên lửa cầm tay, nên nhóm tàu tác chiến còn cần đến sự bảo vệ của quân đội Ai Cập để đảm bảo an toàn dọc hành trình di chuyển. Đây là những lợi ích mà tàu chiến của các nước khác không thể có được.

Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 khởi nguồn từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc có liên quan đến Chiến tranh Lạnh. Vào thời điểm đó, toàn thế giới bị bao trùm bởi bóng đen tranh giành quyền lực giữa Mỹ và Liên Xô, đế quốc Anh không muốn đánh mất vị thế thống trị, tìm cách hình thành thế chân vạc với Mỹ và Liên Xô. Tháng 7/1956, Tổng thống Ai Cập khi đó là Naser Hussein tuyên bố quốc hữu hóa kênh đào Suez; Anh, Pháp và Israel quyết định sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề. Liên minh 3 nước là một dạng kết hợp lợi ích: Israel luôn không hài lòng trước việc Ai Cập không cho nước này sử dụng kênh đào; Pháp lo ngại sự trỗi dậy của Naser Hussein sẽ kích động phong trào khởi nghĩa dân tộc ở Algeria; Anh muốn nhân cơ hội để khôi phục vị thế thống trị, lấy lại ánh hào quang đế quốc một thời.

Ba nước bí mật lên kế hoạch hành động, ngày 29/10/1958 quân đội Israel phát động cuộc tấn công chiếm đóng bán đảo Sinai, sau đó Anh và Pháp sử dụng chiêu bài hòa giải, yêu cầu Ai Cập và Israel lần lượt rút khỏi khu vực kênh đào Suez. Sau đó, liên quân Anh và Pháp đưa quân vào đồn trú ở phạm vi 10 km hai bờ kênh đào để kiểm soát kênh đào Suez. Do nhận định rằng Naser Hussein sẽ không chấp nhận yêu cầu, nên Anh và Pháp đã tập hợp lực lượng hùng hậu để tấn công Ai Cập. Tất cả những tính toán này đều được thực hiện sau lưng Mỹ.

Hành vi xâm lược của Anh và Pháp vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế, Mỹ cũng không hài lòng với hành động mờ ám này dù là đồng minh của 3 nước. Dwight D. Eisenhower lập tức gọi điện cho Thủ tướng Anh Anthony Eden để hối thúc ông rút quân, nhưng bị từ chối. Trước tình thế đó, Dwight D. Eisenhower quyết định giải quyết tận gốc: Về kinh tế, Chính phủ Mỹ cố tình bán tháo đồng bảng Anh, khiến tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh mất giá 15%, đồng thời ngăn chặn Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho Anh vay và ngưng cung cấp viện trợ kinh tế cho nước này. Về ngoại giao, Mỹ đệ trình công hàm lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu Anh và Pháp ngay lập tức rút quân; sau khi bị Anh và Pháp phản đối, Mỹ đã triệu tập hội nghị khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, chính thức thông qua nghị quyết yêu cầu Anh, Pháp và Isael chấm dứt cuộc chiến và rút quân khỏi Ai Cập. Bên cạnh đó, để buộc lực lượng quân sự của Anh và Pháp rút khỏi khu vực kênh đào, Mỹ còn ra lệnh cho quân đội của nước này trên toàn cầu đặt trong tình trạng báo động nhằm uy hiếp Anh và Pháp. Ngoài ra, đối thủ cạnh tranh của Mỹ là Liên Xô tuyên bố nếu Anh và Pháp không ngừng bắn sẽ thực hiện tấn công hạt nhân đối với hai nước này. Đầu tháng 11/1958, Anh, Pháp và Israel cuối cùng cũng phải rút quân trước sức ép ngày càng lớn.

Sau khi Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez, chủ trương sử dụng vũ lực của Anh và Pháp nhận được sự ủng hộ của Israel, nhưng Mỹ và Liên Xô – vốn là đối thủ của nhau trong Chiến tranh Lạnh – lại chủ trương giải quyết xung đột bằng phương thức hòa bình và đứng ra làm trung gian hòa giải ngoại giao. Đây là một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử Chiến tranh Lạnh. Kết cục của cuộc khủng hoảng kênh đào Suez đã chứng minh rằng trong quan hệ quốc tế, sức mạnh quốc gia bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích quốc gia quyết định lập trường ngoại giao.

Mặc dù cả Mỹ và Liên Xô đều chủ trương giải quyết cuộc khủng hoảng bằng phương thức hòa bình, nhưng đây chỉ là biện pháp để hai nước tăng cường sức ảnh hưởng ở khu vực Trung Đông. Mục đích của hai nước đều là muốn dựa vào cuộc khủng hoảng kênh đào Suez để mở rộng ảnh hưởng của mình đối với Ai Cập, thậm chí là Trung Đông. Anh, Mỹ và Pháp có chung lợi ích trong việc ngăn chặn mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, nhưng lợi ích của ba nước ở Ai Cập lại không giống nhau. Những bất đồng trong lập trường của các nước đồng minh phương Tây về việc giải quyết cuộc khủng hoảng kênh đào Suez đã bị Liên Xô lợi dụng, nhanh chân lấp vào chỗ trống.

Ảnh hưởng sâu rộng của cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956

Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 đã gây những tác động rất lớn, vị thế của Anh và Pháp trên toàn cầu giảm sút nhanh chóng, hai siêu cường Mỹ và Liên Xô trở thành lực lượng kiểm soát thực sự Trung Đông, thậm chí toàn thế giới. Cuối năm 1960, Anh quyết định rút khỏi phía Đông kênh đào Suez, bao gồm cả việc rút 50.000 quân và đóng cửa căn cứ quân sự ở Singapore và Malaysia.

11 năm sau, Ai Cập cùng Jordan và Syria ký hiệp định phòng thủ để ứng phó với kẻ thù chung. Israel hành động trước để chiếm ưu thế, tháng 7/1967 phát động tấn công, dẫn tới cuộc Chiến tranh Arập-Israel lần thứ ba. Chỉ trong vòng 6 ngày quân đội Israel đã chiếm diện tích lãnh thổ rộng lớn của ba nước là Ai Cập, Jordan và Syria, bao gồm toàn bộ bán đảo Sinai, đồng thời tiến sâu về phía Đông kênh đào Suez, đối diện với Ai Cập ở bên kia bờ kênh. Trước tình thế đó, Naser Hussein ra lệnh đóng kênh đào vô thời hạn, đồng thời đánh chìm tàu thuyền, đặt thủy lôi và cho nổ tung các cây cầu trong kênh đào, phong tỏa toàn bộ hoạt động vận tải, 8 năm sau mới mở lại.

Việc Dwight D. Eisenhower xử lý thành công cuộc khủng hoảng kênh đào Suez trở thành đề tài nghiên cứu hấp dẫn của các học giả trong và ngoài nước. Ở Trung Quốc, nhiều nghiên cứu sinh tiến sỹ và thạc sỹ đều lấy đó làm đề tài luận văn tốt nghiệp, hơn nữa đều đánh giá cao kỹ năng ngoại giao của Dwight D. Eisenhower. Trong đó, có học giả đưa ra kết luận: “Chính sách ngoại giao của Mỹ không thể bị ràng buộc bởi một đồng minh nhỏ bé, cho dù họ từng là đồng minh đáng tin cậy của nhau. Chỉ khi kiên trì nguyên tắc công bằng và hợp lý, cũng như ủng hộ bên bị hại trong cuộc xung đột, thì Mỹ mới có thể bảo vệ tối đa lợi ích và hình ảnh của mình, và cuối cùng giúp Mỹ trở thành lực lượng bên ngoài có tính quyết định nhất ở khu vực Trung Đông”.

Những năm gần đây, Mỹ vẫn có sức ảnh hưởng lớn đối với Ai Cập, và Ai Cập luôn là nước hưởng lợi lớn thứ hai từ viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ, chỉ đứng sau Israel. Tuy nhiên, Mỹ luôn có thái độ không rõ ràng về tình hình biến động chính trị và sự đi chệch quỹ đạo của thế hệ lãnh đạo Ai Cập. Không ít học giả chỉ trích rằng mặc dù Chính phủ Mỹ ủng hộ dân chủ, nhưng tiền đề là phải phù hợp với mục tiêu chiến lược và kinh tế của Mỹ.

Cho dù là thành viên đảng Dân chủ hay Cộng hòa làm chủ Nhà Trắng, các nhiệm kỳ tổng thống trước đây của Mỹ một mặt muốn thể hiện thái độ ủng hộ đối với tiến trình dân chủ của Ai Cập, mặt khác lại muốn đảm bảo việc hợp tác kinh tế và quân sự với nước này không bị ảnh hưởng. Đây là mấu chốt đảm bảo lợi ích địa chính trị của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Những lợi ích này bao gồm việc Ai Cập ưu tiên cho tàu chiến của Mỹ sử dụng kênh đào Suez để đến Vịnh Persian và cung cấp sự bảo vệ suốt dọc hành trình, cũng như sự hỗ trợ của Ai Cập trong hoạt động chống khủng bố, đặc biệt là ở bán đảo Sinai. Ngoài ra, Ai Cập là thị trường mua vũ khí của Mỹ, mang lại lợi ích không nhỏ cho nước này.

Nhiều năm qua, Mỹ đã hỗ trợ các chính quyền thân Mỹ ở Trung Đông. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và trong quá trình triển khai các hành động quân sự chống khủng bố, các nhà lãnh đạo Mỹ đều đặt cược vào một số nhà độc tài “biết nghe lời”, chứ không phải các nhà chính trị dân chủ khó lường trong lời nói và hành động. Mối quan hệ giữa Washington và Cairo là ví dụ tốt nhất giải thích cho lôgích này. Cựu Tổng thống Hosni Mubarak là một nhà độc tài chuyên chế, nhưng hơn 30 năm qua Mỹ vẫn luôn tôn trọng, làm ngơ trước sự tàn bạo và tham nhũng của chính quyền này. Nhiều năm trước, trong chuyến thăm Cairo, khi trả lời phỏng vấn truyền thông về quan điểm của mình đối với chính quyền độc tài Hosni Mubarak, cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama nói: “Tôi không thích đặt biệt danh cho người khác. Hosni Mubarak là người tốt, làm rất nhiều việc tích cực, ông ấy đã duy trì ổn sự ổn định, và chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ ông ấy.

Khi đang làm Phó Tổng thống, Joe Biden từng có lần phản đối coi Hosni Mubarak là “bạo chúa”, đồng thời phản bác lời kêu gọi yêu cầu này từ chức. Donald Trump thậm chí còn gọi Tổng thống Ai Cập Abdel Fattah al-Sisi (lên nắm quyền sau cuộc đảo chính quân sự) là “nhà độc tài đáng mến nhất”. Dưới sự ủng hộ ngầm của Chính quyền Donald Trump, hành vi bắt bớ và xâm phạm nhân quyền kéo dài đã khiến tình hình nhân quyền của Ai Cập trở nên tồi tệ chưa từng có.

Đầu tháng 3/2021, Chính quyền Joe Biden cam kết không tiếp tục ủng hộ liên quân đa quốc gia do Saudi Arabia đứng đầu can thiệp vào cuộc nội chiến ở Yemen, đồng thời ngừng bán vũ khí cho những nước này. Theo đó, đơn đặt hàng mua vũ khí của Saudi Arabia và Các tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE) bị tác động nặng nề nhất. Tuy nhiên, kênh truyền hình Al-Jazeera cho biết Mỹ đã cho phép bán 168 tên lửa RIM-116 do công ty Raytheon sản xuất với tổng giá trị 197 triệu USD cho Ai Cập với lý do Ai Cập vẫn là đối tác chiến lược quan trọng của Mỹ ở Trung Đông. Một số nhà phân tích chỉ trích Mỹ đang thực hiện tiêu chuẩn kép.

Mỹ sẽ ít quan tâm đến Trung Đông trong thời gian tới

Có phân tích cho rằng lợi ích kinh tế và chính trị ở Trung Đông hiện nay chủ yếu là do các nước thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), các nước Trung Đông, Nga và Mỹ chia nhau. Lưu lượng giao thông của kênh đào Suez và các hoạt động khai thác dầu khí của khu vực này ngày càng tăng sẽ khiến cho tình hình thêm phức tạp, đặc biệt là trong bối cảnh các nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, và Ai Cập tập trung tăng cường sức mạnh hải quân.

Tuy nhiên, trọng điểm chính sách ngoại giao của Joe Biden đang chuyển sang khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, tập trung xây dựng mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Do đó, so với thời kỳ Donald Trump, trong thời gian tới Mỹ sẽ ít quan tâm đến khu vực Trung Đông. Nếu quan hệ Mỹ-Ai Cập thực sự xấu đi trong thời gian tới, bản đồ sức mạnh của Bắc Phi chắc chắn sẽ được sắp xếp lại, điều này giúp Nga và Trung Quốc có được cơ hội để lấp vào chỗ trống của Mỹ. Cuộc đọ sức nước lớn ở khu vực Trung Đông và kênh đào Suez sẽ tiếp tục kéo dài. Vấn đề là liệu Joe Biden có sáng suốt và quyết đoán như Dwight D. Eisenhower hay không?

Thi Nguyên

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here