Theo dự báo, những rủi ro về công nghệ sẽ gia tăng với những vấn đề về an ninh mạng, thanh toán dữ liệu…, mức độ cạnh tranh sẽ tinh vi và khốc liệt hơn trước rất nhiều, trong đó các công ty công nghệ tài chính Fintech sẽ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, trước xu hướng phát triển Cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang là vấn đề trung tâm, thách thức to lớn đối với Việt Nam hiện nay. Hiện Việt Nam đang có sự thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực trong thị trường kỹ thuật số. Trong những năm tới, trong lĩnh vực công nghệ thông tin nói chung và công nghệ cao nói riêng, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 78 nghìn nhân lực mỗi năm và đến năm 2020 sẽ thiếu hơn 500 nghìn nhân lực, chiếm 78% tổng nhu Cầu nhân lực công nghệ thông tin.
Theo đánh giá của các chuyên gia tay nghề, thế lực lao động của người Việt Nam còn nhiều hạn chế trong khi tác phong kỷ luật công nghiệp chưa cao, đồng thời năng suất lao động của Việt Nam cũng thua xa các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia… Do vậy, sắp tới trong điều kiện tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, lợi thế cạnh tranh về lao động giá rẻ sẽ bị giảm sút, nhất là những ngành lao động mang tính gia công làm thuê như dệt may, da giầy… Thực tế đòi hỏi lao động Việt Nam phải được đào tạo, có trình độ chuyên môn cao hơn, phải làm chủ được người máy, công nghệ thông tin, có trình độ tiếng Anh giao tiếp tốt. Theo dự báo, công nghệ thông tin và tiếng Anh là hai yếu tố nền tảng giúp thế hệ trẻ chủ động tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói chung và cách mạng số nói riêng.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển trên nền tảng khoa học công nghệ do đó để có thể tiếp cận xu thế của cuộc cách mạng này, một trong những yêu cầu quan trọng là áp dụng khoa học công nghệ, nhất là số hóa công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính, dịch vụ công của các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước liêm chính, kiến tạo phát triển và hành động vì doanh nghiệp và người dân. Điều này đòi hỏi sự có sự thống nhất nhận thức và vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp cũng như của mỗi cán bộ công chức và người dân; chuyển tư duy nhận thức từ cơ chế nền hành chính “mệnh lệnh” “xin – cho” sang nền hành chính phục vụ, coi người dân và doanh nghiệp thực sự là “đối tác, khách hàng” trong cung cấp dịch vụ công. Điều đó đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng Luật Hành chính công mới tạo hành lang pháp lý góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử đồng thời nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân. Bên cạnh đó cần chú trọng triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trên các phương diện như: tăng cường đầu tư, hoàn thiện văn bản pháp quy để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, đẩy nhanh quá trình xây dựng chính phủ điện tử, Luật Hành chính công.
4. Dự báo và giải pháp
4.1. Dự báo
Chuyên gia của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) nhận định cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới đang ở giai đoạn sơ khai, cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cũng chưa thể đánh giá và dự báo hết được các tác động to lớn của nó. Nhưng thực tế nhiều nước trên thế giới đã chủ động xây dựng chương trình hành động để nắm bắt thời cơ, tận dụng mọi cơ hội mà cuộc cách mạng này đem lại và hạn chế những thách thức, khó khăn nảy sinh. Thực tế lịch sử cho thấy sự phát triển thần kỳ của các nước công nghiệp mới Đông Á được bắt nguồn từ việc sớm tiếp cận và đi thẳng vào Cách mạng công nghiệp lần thứ ba ngay từ bắt đầu khởi phát vào đầu thập niên 1970.
Ở Việt Nam, do điều kiện chiến tranh và hoàn cảnh lịch sử không có được cơ hội và điều kiện để tiếp cận và bắt kịp ngay từ đầu Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Do vậy, thời điểm thế giới bắt đầu khởi phát cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chính là cơ hội ngàn vàng, hiếm có để Việt Nam tiến thẳng vào các lĩnh vực công nghệ cao, tranh thủ các thành tựu do cuộc cách mạng này đem lại để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng dặt ra nguy cơ một số nước bị bỏ lại phía sau nếu không có những chiến lược và chính sách, bước đi đúng đắn để bắt kịp với xu thế phát triển mới. Gần đây, nước Đức đã thử nghiệm sản xuất giầy Adidas hoàn toàn băng robot và công nghệ in 3D để đưa việc sản xuất trở lại các cường quốc. Nếu việc này mở rộng có thể làm mất việc làm của hàng triệu người, trong đó có nhiều người Việt Nam.
Điều đó cho thấy các quốc gia không chỉ dựa vào lợi thế về vốn, công nghệ và tài nguyên khoáng sản sẵn có của nước mình như trước mà phải tìm đến các lợi thế khác về năng lực sáng tạo và khai thác trí tuệ con người. Việt Nam cũng rất khó khăn nếu chỉ dựa vào khai thác những yếu tố như về vốn, công nghệ và tài nguyên khoáng sản, nhưng bù lại Việt Nam có rất nhiều dư địa về tài nguyên con người, đó là thế hệ dân số trẻ, có khả năng tiếp cận và thích nghi nhanh với công nghệ thông tin và giáo dục đào tạo sẽ là chìa khóa để Việt Nam phát huy lợi thế so sánh này. Đây là cơ hội nhưng cũng đồng thời là trách nhiệm, thách thức to lớn của ngành giáo dục và đào tạo hiện nay.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phản ánh một trong những xu thế lớn của thời đại hiện nay, đang làm thay đổi và góp phần định hình lại thế giới, đưa nền sản xuất văn minh của nhân loại sang một giai đoạn phát triển mới. Vấn đề đặt ra không phải là Việt Nam có nên tham gia hoặc có thể bắt kịp xu hướng phát triển của Cuộc cách mạng 4.0 mà ngược lại, nếu không tham gia vào xu hướng chung thì nền kinh tế và công nghiệp nước ta có thể xảy ra tình trạng “lỡ tàu” một lần nữa, làm cho nguy cơ tụt hậu xa hơn về phát triển kinh tế ngày càng nặng nề hơn.
4.2. Giải pháp
Nhận thức được xu thế phát triển của thời đại, nhất là vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ, Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua luôn quan tâm đến sự phát triển của khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, coi đó là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ trương tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ mới tiên tiến vào quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ những hạn chế yếu kém như: “Khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế-xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm và trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả công nghệ chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp’’. Đồng thời Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII xác định rõ mục tiêu phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.
Thực hiện cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 4/5/2017, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với Việt Nam. Chỉ thị cũng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ thúc đẩy phát triển tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng và nguồn nhân lực công nghệ thông tin – truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và đảm bảo an toàn an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân vào doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển duới tác động của cuộc Cách mạng công nghệp 4.0.
Theo hướng này cần tập trung vào một số giải pháp trọng yếu sau:
– Vì cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây nên vẩn đề đổi mới giáo dục – đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ quan trọng mà còn rất cấp bách hiện nay, trong đó chú trọng nâng cao trình độ công nghệ thông tin và tiếng Anh ở các bậc học theo hướng hội nhập quốc tế.
– Tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện môi trường kinh doanh cạnh tranh, cải cách thủ tục hành chính để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, đưa Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp là con đường nhanh nhất để phát triển lực lượng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp công nghệ cao, tạo những nhân tố phát triển đột phá trong nền kinh tế số, tập trung xây dựng thúc đẩy các hoạt động ứng dụng nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng 4.0. Trước hết cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ sản xuất mới.
– Các bộ, ngành khẩn trượng triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, xây dựng nhà máy, thành phố thông minh. Tập trung xây dựng chiến lược chuyển đổi và phát triển nền quản trị hành chính và doanh nghiệp thông minh, các ngành như nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh… Theo hướng này cần tiếp tục rà soát lựa chọn phát triển các sản phẩm chủ lực, mang tính cạnh tranh chiến lược của quốc gia trên cơ sở ứng dụng các công nghệ sản xuất mới để tập trung đầu tư phát triển.
– Về lâu dài cần có kế hoạch tập trung đầu tư cho các ngành mũi nhọn trọng điểm của quốc gia như công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới nano, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng.
– Đổi mới cơ chế và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp, chú trọng cơ chế về tài chính, thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực đổi mới công nghệ nhất là đối với công nghệ thông tin và công nghệ tiên tiến khác. Tận dụng tiềm năng tri thức, kinh nghiệm chuyển giao công nghệ mới của lực lượng Việt kiều ờ nước ngoài.
– Để tận dụng cơ hội và khắc phục thách thức, khó khăn dưới tác động cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, cần tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức, tuyên truyền thông tin về bản chất xu hướng phát triển và tác động của cuộc cách mạng này, những thời cơ, thách thức đặt ra để định hướng dư luận từ các cơ quan của Chính phủ, bộ, ngành đến các tổ chức, doanh nghiệp và người dân có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
– Vì hạ tầng công nghệ thông tin là điều kiện nền tảng để tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nên trong Chương trình hành động của Chính phủ, ngoài quyết tâm chính trị, nắm bắt thời cơ, cần chú trọng các yếu tố về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, cần đầu tư đồng bộ, tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu mang tính nền tảng. Bên cạnh đó thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo dạy nghề trong hệ thống các trường nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu làm chủ và khai thác vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, cần xây dựng phương án, đề xuất các chính sách mới phù hợp với việc thay đổi trong cơ cấu lao động, giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với cơ cấu thị trường lao động, đảm bảo thực hiện an sinh xã hội.
Kết luận
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất văn minh của nhân loại, cuộc cách mạng này diễn ra với tốc độ nhanh hơn, phạm vi rộng lớn từ sản xuất đến đời sống, từ hoạt động của mỗi cá nhân đến các tổ chức doanh nghiệp, và cả chính phủ các bộ ngành, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Cuộc cách mạng này cũng tạo ra cơ hội, thách thức to lớn đối với các nước và dân tộc. Nắm bắt xu thế này, Việt Nam có khả năng tranh thủ các điều kiện thuận lợi để tận dụng thời cơ, giảm thiểu các khó khăn thách thức đặt ra nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển, nhất là về kinh tế, với các nước trong khu vực và ưên thế giới, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.
Trần Nguyễn Tuyên