CMCN 4 ảnh hưởng thế nào tới nguồn nhân lực APEC

0
129
TS. Cấn Văn Lực
TS. Cấn Văn Lực

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang thay đổi diện mạo của các nền kinh tế thành viên APEC, trong đó có Việt Nam. Trước làn sóng mới, nguồn nhân lực của Việt Nam cũng như APEC đón nhận nhiều cơ hội mới song cũng phải đương đầu với không ít thách thức để thích ứng và phát triển.

Đó là những nội dung trao đổi của chuyên gia kinh tế, Ủy viên Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (VNCPEC) – TS. Cấn Văn Lực với báo TG&VN bên lề Đối thoại Chính sách cao cấp về Phát triển Nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số trong khuôn khổ Hội nghị quan chức cao cấp APEC lần thứ 2 (SOM 2) và các cuộc họp liên quan đang diễn ra từ ngày 9 – 21/5 tại Hà Nội.

Thưa ông, CMCN 4.0 đã mang lại rất nhiều cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực các nền kinh tế. Dưới tác động của CMCN 4.0, vấn đề dịch chuyển lao động chất lượng cao trong APEC sẽ cần phải định hướng như thế nào?

Dịch chuyển lao động là vấn đề quan trọng, được bàn tới ở một số hội thảo vừa qua trong khuôn khổ SOM 2. Khi APEC hợp tác chặt chẽ sẽ tạo nhiều cơ hội liên quan tới vấn đề đi lại, visa, cấp phép lao động và thị trường xuất nhập khẩu lao động. Thực tiễn, Việt Nam là thị trường xuất khẩu lao động khá lớn trong APEC. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, có khoảng gần 200.000 lao động Việt Nam tại Đài Loan.

Vấn đề dịch chuyển lao động trong APEC có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp phải không ít thách thức. Cụ thể, gần đây, chủ nghĩa dân túy, bảo hộ thương mại, lôi kéo công ăn việc làm về nước của mình đang gia tăng. CMCN 4.0 có nhiều tác động khiến cho các nền kinh tế phát triển trong APEC dùng nhiều máy móc, công nghệ hơn để thay thế lao động thủ công. Thực tế này dẫn đến nhu cầu lao động thủ công với tay nghề thấp trong APEC bị giảm, tác động trở lại đối với thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam nói riêng và các nền kinh tế đang phát triển nói chung.

Ngoài ra, CMCN 4.0 sẽ yêu cầu lực lượng lao động có kỹ năng, trình độ ở mức cao hơn, đặt ra bài toán với Việt Nam và một số nền kinh tế khác về việc phát triển một đội ngũ lao động thông thạo ngoại ngữ, kỹ năng và cả trình độ quản lý để có thể đáp ứng bối cảnh mới. Một thách thức quan trọng khác là tác động tiêu cực đối với lực lượng lao động nhập cư khi có một số ý kiến một chiều cho rằng lao động nhập cư làm mất đi công ăn việc làm của nước sở tại và gây ra bất ổn trong xã hội (mà chưa nhìn nhận những khía cạnh khác). Đó là lý do nhiều nền kinh tế như Mỹ hay Australia có xu hướng tăng cường chính sách bảo hộ lực lượng lao động trong nước, tăng biện pháp phòng vệ như visa đi lại, xuất nhập cảnh. Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng sẽ cho phép làm việc linh hoạt hơn, không nhất thiết phải có mặt ở văn phòng làm việc 8-10 tiếng, mà có thể làm việc, trao đổi qua kênh CNTT.

Theo đó, các nền kinh tế cần đánh giá, rà soát tổng thể chính sách nguồn nhân lực, đối với cả lực lượng nhập cư để có giải pháp ứng xử phù hợp, vẫn đảm bảo có nguồn lực chất lượng cao phục vụ sản xuất-kinh doanh…v.v.

Vậy theo ông, CMCN 4.0 tác động tới nguồn nhân lực Việt Nam như thế nào?

Theo tôi, với đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, CMCN 4.0 mang tới một số cơ hội. Trước hết, dân số Việt Nam về cơ bản là trẻ, tuổi bình quân của Việt Nam là 31 tuổi, so với Trung Quốc là 36 tuổi, Singapore, Malaysia là 39 tuổi và Nhật Bản là 47 tuổi. Vì vậy, khả năng thích ứng, học hỏi của nhân lực Việt Nam rất nhanh. Bên cạnh đó, lực lượng lao động Việt Nam có quy mô khá lớn, khoảng hơn 55 triệu và còn tăng nhanh, dự kiến đến 2025 sẽ khoảng 62 triệu. Đây là thời kỳ dân số tương đối tốt, mà một số người thường gọi là “dân số vàng”.

Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập APEC, công nghệ số là điều kiện, cơ hội để các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi, chuyển giao công nghệ từ phía đối tác nước ngoài. Việc các thành viên APEC tăng cường hợp tác với nhau trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, kiểm soát rủi ro xuất phát từ nền công nghệ số cũng có thể xem là một cơ hội khác cho Việt Nam. Đồng thời, công nghệ số góp phần nâng cao năng suất lao động vốn dĩ đang thấp tại Việt Nam.

Tuy nhiên, như hai mặt của một đồng xu, CMCN 4.0 cũng mang lại những thách thức không nhỏ đối với nguồn nhân lực Việt Nam. Câu chuyện cần đề cập đầu tiên là về cạnh tranh, không những về kinh tế, thị trường, khách hàng mà cả về nguồn nhân lực. Sự chảy máu chất xám có thể diễn ra mạnh mẽ hơn. Thách thức tiếp đến là năng lực cạnh tranh của mỗi người lao động Việt Nam đang ở mức thấp (do năng suất lao động của Việt Nam rất thấp, nhiều người thiếu kỹ năng mềm, kỹ năng làm việc chuyên nghiệp, vốn ngoại ngữ…); do đó, CMCN 4.0 có thể tạo ra sức ép về việc làm. Nhiều lao động có trình độ thấp, kỹ năng thấp, lao động chân tay có khả năng mất việc làm. Vấn đề an ninh công nghệ thông tin, an ninh mạng cũng được xem là một khó khăn mà CMCN 4.0 tạo ra với Việt Nam. Hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam về cơ bản đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn tồn tại bất cập. Thêm vào đó, yếu tố nhận thức, quan điểm và kiến thức quản lý-giám sát của cơ quan quản lý đáp ứng yêu cầu mới hay không cũng cần tính đến.

Thách thức cuối cùng liên quan tới giáo dục đào tạo. Có thể thấy, giáo dục đào tạo nước ta chưa theo kịp yêu cầu của phát triển đất nước cũng như của thời đại, đặc biệt là công nghệ số. Yếu tố đầu ra của Việt Nam hiện nay còn hiện tượng khá phổ biến là thừa thầy thiếu thợ, không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế mà ở các ngành nghề khác nhau.

Trong bối cảnh đó, các cơ quan hoạch định chính sách, đơn vị đào tạo và doanh nghiệp cần làm gì để có được nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thời đại?

Trước hết, các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp cần phải đánh giá rất kỹ và rõ ràng những tác động, tác động của hội nhập, tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với Việt Nam nói chung và đối với từng ngành nghề, lĩnh vực, doanh nghiệp của mình nói riêng. Qua đó, có cách để giảm thiểu tác động tiêu cực và tận dụng những cơ hội.

Thứ hai, phải quyết tâm đổi mới giáo dục-đào tạo tại Việt Nam, để theo kịp yêu cầu hiện nay. Chẳng hạn, hiện nay, thế giới tập trung đào tạo nhân viên với nội dụng 4C, nhưng Việt Nam lại không mấy quan tâm. C thứ nhất là Communication – kỹ năng giao tiếp, trao đổi, truyền thông; C thứ hai là Collaboration – kỹ năng phối kết hợp, làm việc nhóm, C thứ 3 là Critical-thinking – tư duy phản biện; và C thứ tư Creativity – tính sáng tạo. Theo tôi, đây là mô hình mà đào tạo Việt Nam cần tập trung trong thời gian tới.

Giải pháp thứ 3 là cần tăng cường hợp tác trong và ngoài nước để phát triển giáo dục, đào tạo. Ví dụ, trong khuôn khố APEC, cần hướng tới việc chuẩn hóa các vị trí chức danh và công nhận bằng cấp lẫn nhau, nhất là bằng cấp trong thời kỳ kỹ thuật số, những chứng chỉ từ các cuộc thi trên mạng. Ngoài hình thức đào tạo truyền thống thì còn kết hợp đào tạo cả hình thức e-learning đang phổ biến. Đồng thời, cần tập trung mạnh mẽ hơn về đào tạo ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh), kiến thức và kỹ năng về CNTT cho người lao động, những kỹ năng mà lao động Việt Nam đang còn yếu.

Cuối cùng, phải đổi mới thể chế, tạo ra một môi trường làm việc mà ở đó, cán bộ nhân viên được cống hiến, được ghi nhận, đánh giá đúng và tạo điều kiện học tập chứ không phải môi trường căng thẳng, tức là tạo ra văn hóa tổ chức lành mạnh. Muốn vậy, mỗi ngành nghề, lĩnh vực và tổ chức cần xây dựng bản mô tả công việc chuẩn ứng với mỗi vị trí chức danh, kèm theo đó là khung năng lực cán bộ, khung lương và tiêu chí, phương thức đánh giá cán bộ khách quan, minh bạch và công bằng hơn.

Các nền kinh tế phát triển hơn trong APEC cần có vai trò như thế nào trong việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực ở các nền kinh tế kém phát triển hơn?

Lâu nay, các nền kinh tế APEC cũng như các thành viên trong ASEAN đã bàn nhiều về việc thu hẹp khoảng cách về kinh tế-xã hội, văn hóa giữa các thành viên. Những biện pháp quan trọng được đề cập là tăng cường hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau về kỹ thuật; cử chuyên gia; tiếp nhận lao động; thông qua các chương trình hợp tác giữa các chính phủ và doanh nghiệp; thúc đẩy đào tạo liên kết, công nhận văn bằng lẫn nhau. Những công việc này, thời gian qua đã được các nền kinh tế thành viên APEC làm khá tốt nhưng vẫn phải đẩy mạnh hơn, đặc biệt là đẩy mạnh giáo dục đào tạo trong môi trường công nghệ số gắn với kiểm soát rủi ro an ninh CNTT. Những hội nghị, đối thoại tại APEC cũng là diễn đàn rất tốt để trao đổi, chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm và hợp tác…v.v. Ngoài ra, có chế, chính sách về dịch chuyển, xuất-nhập khẩu lao động cũng cần thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới.

Liễu Hằng (Thực hiện)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here