Toàn cầu hóa và thương mại quốc tế đã đóng góp vào việc gia tăng mạnh mẽ thịnh vượng và phúc lợi của nhân loại trong 50 năm qua. Việc trao đổi hàng hóa, công nghệ và thông tin nhờ quá trình toàn cầu hóa đã cải thiện một cách sâu rộng mức sống và giảm nghèo trên toàn thế giới.
Toàn cầu hóa: Tốt – Xấu, và vai trò của chính sách
Một trong những đóng góp thiết thực nhất của toàn cầu hóa đối với việc cải thiện đời sống con người là trong vấn đề thương mại về vác-xin. Từ năm 1998 đến năm 2015, các thuế quan đối với vắc-xin đã giảm và tốc độ tăng trưởng của thương mại về vác-xin đạt mức trung bình 24% mỗi năm. Trao đổi thương mại đã giúp phổ biến các loại vắc-xin có thể giúp cứu sống con người, tạo thuận lợi cho hệ thống chăm sóc sức khỏe của các nước giảm tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ em, và xóa bỏ hầu như hoàn toàn các bệnh làm suy yếu con người, trong đó có bệnh bại liệt.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã không mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Thương mại đã góp phần làm tăng thịnh vượng chung cũng như tạo thêm các cơ hội việc làm ở các nền kinh tế mở cửa. Việc mở cửa cũng tạo ra thất nghiệp mang tính cơ cấu do các doanh nghiệp hoặc ngành công nghiệp không có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ phải đóng cửa và sa thải người lao động.
Điều đáng tiếc là những người lao động có kỹ năng thấp kém hoặc trung bình, vốn là những người ít có khả năng thích nghi nhất với thất nghiệp mang tính cơ cấu, lại là những người chịu nhiều tác động tiêu cực nhất của toàn cầu hóa. Bản phân tích số liệu thương mại và việc làm của 125 nền kinh tế trong giai đoạn 2000 – 2014 cho thấy tương quan giữa xuất khẩu và việc làm. Xuất khẩu tăng 10% thì việc làm dành cho người lao động có kỹ năng thấp kém hoặc trung bình giảm 1,1 đến 2,1%.
Tuy nhiên, cũng chính các số liệu này cho thấy, chủ nghĩa bảo hộ không phải là câu trả lời cho thất nghiệp mang tính cơ cấu. Không có bằng chứng nào cho thấy việc tăng nhập khẩu có mối tương quan trực tiếp với giảm việc làm. Thay vì đó, các số liệu cho thấy mối quan hệ thuận giữa nhập khẩu và việc làm.
Khác với nguồn vốn, có thể chuyển dịch dễ dàng từ ngành này sang ngành khác, người lao động cần thời gian và nguồn lực để chuyển đổi từ một ngành kém cạnh tranh sang ngành có nhiều cơ hội hơn. Do đó, cần có các chính sách điều chỉnh liên quan thương mại để hỗ trợ những người lao động bị thua thiệt bởi toàn cầu hóa. Trên phương diện kinh tế, các chính sách này bao gồm việc tạo điều kiện cho người dân liên tục được đào tạo (và tái đào tạo) các kỹ năng, hỗ trợ tạm thời cho các hộ gia đình bị tác động bởi thất nghiệp cơ cấu, cũng như tạo điều kiện tiếp cận vốn để khởi nghiệp.
Ở tầm toàn cầu, các điều chỉnh liên quan thương mại có thể được tạo thuận lợi thông qua các chính sách liên quan thương mại dựa trên luật lệ nhằm khuyến khích hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường quốc tế, vì nếu nền kinh tế đó tham gia vào thị trường toàn cầu sẽ hỗ trợ quá trình điều chỉnh trong nước do sự có ít chuyển hướng thương mại. Thương mại cũng có thể mang tính bao trùm hơn nhờ các luật lệ “mềm” (soft laws) (ví dụ: các bộ hướng dẫn không có mang tính ràng buộc hoặc các tuyên bố chính sách) trên các lĩnh vực lao động hoặc tiêu chuẩn môi trường nhằm bảo đảm cạnh tranh công bằng.
Mặc dù khái niệm “tính bao trùm” của toàn cầu hóa đã được nêu tại các tuyên bố APEC, mà sớm nhất là tại văn kiện về các Mục tiêu Bogor năm 1994, trong những năm gần đây các nhà Lãnh đạo APEC đã đề cao hơn nữa việc bảo đảm tính bao trùm và bền vững của tăng trưởng khu vực. Các nỗ lực về tăng trưởng chất lượng, cải cách cơ cấu, quốc tế hóa các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa và phát triển nhân lực đã được thúc đẩy nhằm chia sẻ rộng rãi các cơ hội và lợi ích của toàn cầu hóa đến mọi thành phần trong xã hội.
Toàn cầu hóa không phải liều thuốc để giải quyết mọi bất bình đẳng xã hội; nhưng sự thịnh vượng, thông tin và giao lưu con người có được nhờ quá trình toàn cầu hóa có thể được sử dụng để bảo đảm phân phối một cách công bằng hơn những cơ hội và lợi ích. Bản thân toàn cầu hóa sẽ không dẫn tới một xã hội công bằng và bình đẳng hơn. Để đạt được điều đó, cần tới nỗ lực của các nhà hoạch định chính sách và ý chí của các chính trị gia để chuyển hóa cơ hội thành hiện thực.
Đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu và sự lạc quan đang thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn
Năm 2016, tăng trưởng của APEC đạt 3,5%, giảm nhẹ so với GDP của năm trước là 3,6%. Tiêu dùng của chính phủ và tư nhân tại các nền kinh tế APEC tiếp tục giữ đà là động lực chính cho tăng trưởng của APEC. Tiêu dùng được thúc đẩy bởi lãi suất thấp và giá các hàng hóa cơ bản cũng ở mức thấp, cũng như chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các chính phủ thông qua các biện pháp tài chính và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Tăng trưởng thương mại của khu vực APEC đã bắt đầu được cải thiện từ giữa năm 2016. Trong cả năm 2016, kim ngạch trung bình của xuất khẩu hàng hóa trong APEC giảm 4,1%, thấp hơn mức giảm 8,7% năm 2015. Nhập khẩu cũng có chung xu hướng này. Thương mại APEC được cải thiện là nhờ thương mại toàn cầu năm 2016 tăng trưởng tích cực hơn năm 2015.
Tốc độ tăng trưởng thương mại tăng từ giữa năm 2016 nhờ cầu thế giới và giá các hàng hóa cơ bản tăng cũng như các nhân tố mang tính đặc thù của từng nền kinh tế thành viên trong quá trình đa dạng hóa thị trường, sản phẩm và các đối tác thương mại.
5 trong số tốp 10 các nền kinh tế hàng đầu thế giới về tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2016 là các nền kinh tế thành viên APEC (FDI). Tổng nguồn vốn FDI vào 5 nền kinh tế thành viên này lên tới 710 tỉ USD, tương đương 46,7% tổng lượng FDI toàn cầu năm 2016.
Các biện pháp tạo thuận lợi cho đầu tư đã thúc đẩy các nguồn vốn FDI đổ vào khu vực APEC. Trong giai đoạn từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 10/2016, số lượng các biện pháp tạo thuận lợi cho đầu tư nhiều hơn số lượng các biện pháp hạn chế đầu tư. Các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại cũng nhiều hơn các biện pháp hạn chế thương mại trong cùng kỳ.
Dự báo GDP của APEC về ngắn hạn, trong giai đoạn 2017 – 2018, sẽ tăng cao hơn, đạt mức 3,8%, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu. Tăng trưởng của khu vực APEC năm 2019 dự kiến đạt 3,7%, bằng mức tăng trưởng toàn cầu.
Tốc độ tăng trưởng của thế giới và APEC có xu hướng tăng trong ngắn hạn nhờ kỳ vọng các hoạt động thương mại và đầu tư sẽ sôi động hơn; việc áp dụng các biện pháp tài chính nhằm kích thích tăng trưởng, đặc biệt là tại Hoa Kỳ và Trung Quốc; và sự tăng giá trở lại của các hàng hóa. Tuy nhiên, còn nhiều bất định đáng kể về thương mại, tiền tệ và chính sách tài chính có thể làm gián đoạn các hoạt động thương mại và đầu tư, và tác động trái chiều đến tăng trưởng kinh tế.
Sự rõ ràng, minh bạch và nhất quán của các chính sách kinh tế có thể mang tính quyết định đối với quy mô và chiều hướng tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Về trung hạn, quản lý kinh tế vĩ mô cần được hỗ trợ bởi tái cấu trúc hướng tới thúc đẩy sáng tạo, hình thành những thị trường cạnh tranh hơn, tạo thuận lợi cho mọi thành phần xã hội tham gia và tăng cường tính tự cường về kinh tế, qua đó đóng góp vào mục tiêu của APEC về tăng trưởng bền vững, công bằng và bao trùm.
P.V (theo PSU)