BRICS đang trong giai đoạn mở rộng nhanh chóng và từ nay có tham vọng giải quyết tất cả các vấn đề quốc tế lớn. Các nước châu Á đóng vai trò quan trọng đối với tương lai của BRICS. Không có dự án mang tính cơ cấu nào, đặc biệt liên quan đến phi đô la hóa, có thể được thực hiện nếu không có sự lãnh đạo của Trung Quốc, và dần dần là Ấn Độ.
Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu (BRICS) lần thứ 16, diễn ra vào tháng 10 vừa qua tại thành phố Kazan (Nga), đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng. Hội nghị quy tụ 5 quốc gia thành viên sáng lập (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), 5 quốc gia thành viên mới gia nhập kể từ ngày 1/1/2024 (Iran, Ai Cập, Saudi Arabia, Ethiopia, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất-UAE), và 25 quốc gia khác cũng như nhiều đại diện của các tổ chức quốc tế, cùng sự tham gia đáng chú ý của Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres.
Châu Á là trọng tâm của việc mở rộng BRICS?
Ngoài 10 thành viên hiện tại, 13 quốc gia khác, trong đó có 6 quốc gia châu Á, đã đạt được quy chế “đối tác”. Trong nhóm nước đối tác này, ASEAN có tầm ảnh hưởng lớn với 4 thành viên chính, và khu vực Trung Á cũng góp mặt.
Quy chế đối tác cho phép các quốc gia liên quan tham gia một số hoạt động của BRICS, và trên hết, đây là một bước tiên quyết để các quốc gia này gia nhập BRICS. Việc gia nhập này không được đảm bảo vì cần có sự đồng thuận của các thành viên hiện tại, tuy nhiên dường như hầu hết các quốc gia đối tác có khả năng được chấp nhận trong một thời hạn ngắn hoặc dài. Có những đơn xin gia nhập bị từ chối trước khi đạt được quy chế đối tác, như trường hợp của Venezuela. Khoảng 10 quốc gia không đạt quy chế đối tác cũng đã bày tỏ mong muốn gia nhập tổ chức.
Do đó, trong thời gian tương đối ngắn, BRICS có thể vượt qua G20 về số lượng thành viên, với sự phân bổ khá cân bằng theo lục địa: 8 quốc gia châu Á, 3 quốc gia từ Cận Đông và Trung Đông, 3 quốc gia châu Âu (nếu tính cả Thổ Nhĩ Kỳ), 6 quốc gia châu Phi và 3 quốc gia Mỹ Latinh hoặc Trung Mỹ. Châu Á không chiếm ưu thế về số lượng trong nhóm 10 quốc gia thành viên và nhóm 13 quốc gia đối tác, nhưng đại diện cho 3/4 dân số cũng như 3/4 tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của BRICS+.
BRICS bắt đầu giải quyết mọi vấn đề quốc tế lớn
Trang asialyst.com phân tích Tuyên bố Kazan là một tài liệu dài gồm 134 đoạn, đề cập đến tất cả các vấn đề quốc tế hiện nay với 3 trụ cột chính: chính trị và an ninh quốc tế, các vấn đề kinh tế và tài chính, văn hóa và hợp tác giữa các dân tộc. Ngoài các tuyên bố thuần túy mang tính ngoại giao, bao gồm những cam kết mạnh mẽ về giải quyết xung đột một cách hòa bình, bảo vệ quyền con người và chống nạn tin giả, tài liệu này còn liệt kê một loạt sáng kiến với mức độ quan trọng khác nhau.
Trong tài liệu, có nhiều sáng kiến quan trọng, bao gồm: bảo vệ các loài mèo lớn trên thế giới (sáng kiến của Ấn Độ), tạo thuận lợi cho các giao dịch và tài trợ quốc tế bằng đồng nội tệ, xây dựng nền tảng trao đổi hàng hóa nông sản (sáng kiến của Nga), thiết lập quan hệ đối tác cho một cuộc cách mạng công nghiệp mới, thành lập một nhóm nghiên cứu chung về trí tuệ nhân tạo, phát triển hợp tác trong việc xác định các nguồn tài nguyên địa chất về kim loại quan trọng, thành lập nhóm công tác về y học hạt nhân, hợp tác tài chính, và phát triển các chương trình nghiên cứu khoa học chung.
Việc mở rộng nhanh chóng BRICS sẽ không tạo điều kiện thuận lợi cho sự gắn kết của tổ chức này, và việc BRICS tồn tại đồng thời với nhiều diễn đàn đa phương hay khu vực khác có cùng các chủ đề sẽ không đảm bảo thành công cho các sáng kiến được nêu trong tuyên bố Kazan.
Tuy nhiên, ngoài sức mạnh kinh tế, BRICS vẫn có những điểm mạnh mà tổ chức này sẽ cố gắng khai thác. Về lĩnh vực năng lượng, 10 quốc gia thành viên hiện tại của BRICS đã chiếm 36% lượng xuất khẩu dầu thô và 34% lượng xuất khẩu dầu tinh chế trên toàn thế giới. Các quốc gia này cũng đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế về đậu nành (chiếm 51%) và gạo (chiếm 44%), cùng nhiều kim loại quan trọng khác (đất hiếm, magie, graphit).
13 quốc gia đối tác cũng bao gồm nhiều nhà xuất khẩu lớn về sản phẩm năng lượng (Algeria, Indonesia, Malaysia, Kazakhstan, Nigeria), nông sản (Thái Lan) và các kim loại quan trọng (Bolivia, Indonesia). Do vậy, BRICS+ có các phương tiện để tác động đến sự phát triển của các giao dịch năng lượng, nguyên liệu thô và kim loại quan trọng trên thế giới, với trọng tâm công việc là chấm dứt sự thống trị của đồng USD.
Vấn đề đồng USD
Nga đặc biệt quyết tâm tìm kiếm các phương thức tài trợ thay thế cho đồng USD kể từ khi nước này phải đối mặt với một loạt lệnh trừng phạt của phương Tây, bao gồm việc cấm các ngân hàng Nga tham gia hệ thống SWIFT hoặc phong tỏa tài sản của Ngân hàng trung ương Nga.
Trung Quốc cũng có động lực tương tự để dần đưa nhân dân tệ trở thành đồng tiền quốc tế cạnh tranh với đồng USD. Về phần mình, Ấn Độ lợi dụng khó khăn của Nga để sử dụng rupee trong các giao dịch mua dầu của Nga. Các quốc gia thành viên khác trong nhóm BRICS+ ít có động lực hơn trong việc tránh thanh toán bằng USD, và Vladimir Putin vẫn thận trọng trong các nhận định về triển vọng phi đô la hóa tại cuộc họp báo bế mạc Hội nghị thượng đỉnh Kazan.
Ý tưởng về một đồng tiền chung khối BRICS rõ ràng vẫn chỉ là một công cụ truyền thông hơn là một dự án thực tế, và khả năng hiện thực hóa ý tưởng này gần như bằng không. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn 5 lĩnh vực cần tập trung, gồm đa dạng hóa dự trữ ngoại hối, thực hiện các giao dịch song phương bằng đồng nội tệ, tạo ra các tài sản quốc tế bằng đồng nội tệ, giảm dần sự phụ thuộc vào đồng USD trong các thị trường năng lượng và nguyên liệu thô, và quốc tế hóa đồng nhân dân tệ.
Về dự trữ ngoại hối, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ là 4 quốc gia có dự trữ vàng tăng mạnh nhất trong 10 năm qua, với mức tăng đáng kể kể từ khi bắt đầu cuộc chiến ở Ukraine. Sự hấp dẫn của vàng đi đôi với sự xói mòn dần tỷ trọng của đồng USD trong dự trữ ngoại hối của tất cả các ngân hàng trung ương trên thế giới, từ 71% năm 2000 xuống còn 58% vào năm 2024. Tuy nhiên, các đồng tiền lớn khác như euro, yen và bảng Anh vẫn giữ được tỷ lệ ổn định khoảng 30%. Trong số các đồng tiền “thay thế”, nhân dân tệ vẫn gặp khó khăn với tỷ trọng bị giới hạn ở mức 2,1% vào cuối tháng 6/2024, giảm so với năm 2023.
Về các giao dịch song phương, những tiến bộ đạt được không đồng đều. Theo các nguồn tin từ Nga và Trung Quốc, các trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và Nga được thực hiện bằng đồng nhân dân tệ hoặc đồng ruble chiếm từ 90-95% tổng giá trị trao đổi song phương. Trong khi đó, các giao dịch thương mại với Ấn Độ bằng đồng nội tệ vẫn chưa có nhiều tiến triển.
Nga gặp 3 vấn đề với Ấn Độ: thứ nhất, Nga là nước xuất khẩu ròng với số lượng đáng kể, và đang tích lũy đồng rupee Ấn Độ để đầu tư vào trái phiếu lãi suất thấp; thứ hai, các giao dịch giữa 2 đồng tiền này được thực hiện thông qua các đồng tiền trung gian do đồng rupee Ấn Độ không thể chuyển đổi tự do, điều này gây tốn kém (một thỏa thuận đang được dự kiến đưa ra để giải quyết vấn đề này); thứ ba, đồng tiền của Nga không thể dễ dàng rút ra khỏi Ấn Độ do sự kiểm soát chặt chẽ về ngoại hối của Ngân hàng Trung ương Ấn Độ. Một trong những giải pháp mà các nhà giao dịch tài chính Nga đã tìm ra là đổi đồng rupee Ấn Độ lấy các đồng tiền mã hóa (một dạng của tiền điện tử hoặc tiền kỹ thuật số), sau đó loại tiền này có thể được đổi lấy các đồng tiền khác tại UAE.
Các giao dịch song phương bằng tiền tệ địa phương khá đơn giản với Trung Quốc, vì đồng nhân dân tệ của nước này đã trở thành một đồng tiền quốc tế và Trung Quốc đã triển khai các giải pháp kỹ thuật cho giao dịch bằng đồng nhân dân tệ thông qua việc tạo ra một hệ thống cạnh tranh với SWIFT là CPIS. Đó không phải là trường hợp của hầu hết các đồng tiền của các quốc gia khác trong BRICS+. Vả lại, một nghiên cứu của Ngân hàng ING (ngân hàng và dịch vụ tài chính đa quốc gia Hà Lan có trụ sở chính tại Amsterdam – ND) về 10 quốc gia thành viên BRICS cho thấy tài sản hay nợ của các quốc gia BRICS bằng các đồng tiền thay thế đang gia tăng, tuy nhiên điều này vẫn chưa đủ để thay thế đồng USD.
Quá trình phi đô la hóa thị trường năng lượng và nguyên liệu nông nghiệp vẫn đang ở giai đoạn sơ bộ. Trung Quốc có các thỏa thuận song phương với Saudi Arabia, UAE và Iran để thúc đẩy việc mua dầu bằng các đồng tiền của các quốc gia đối tác, và có thể sẽ thực hiện điều tương tự với các quốc gia khác như Algeria. Tuy nhiên, những khó khăn khi thanh toán bằng đồng nội tệ vẫn không thay đổi. Việc từ bỏ đồng USD làm tăng những rủi ro về tỷ giá. Ngoại trừ các quốc gia chịu các biện pháp trừng phạt như Nga và Iran, các quốc gia còn lại có động cơ chủ yếu mang tính ngoại giao hơn là thực tiễn, và các nước BRICS – với tư cách là một nhóm – không thể thực sự thiết lập một hệ thống bù trừ đa phương bằng các đồng tiền thay thế USD.
Do vậy, tương lai của quá trình phi đô la hóa phụ thuộc vào sự phát triển quốc tế của các đồng tiền thay thế như đồng nhân dân tệ. Tuy nhiên, giai đoạn gần đây không phải là thời điểm thuận lợi cho việc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ, khi đồng nhân dân tệ yếu đi so với đồng USD và Trung Quốc thắt chặt kiểm soát ngoại hối để tránh thất thoát vốn. Các chỉ số truyền thống (như tỷ trọng trong dự trữ ngoại hối, trao đổi thương mại, giao dịch qua hệ thống SWIFT, tài sản tài chính) đang đứng yên hoặc chỉ tăng trưởng một cách hạn chế. Dù sao chúng ta cũng đang chứng kiến một sự khởi đầu của các giao dịch thương mại bằng đồng nhân dân tệ giữa các quốc gia thứ ba. Ví dụ, Nga thực hiện 5% giao dịch bằng đồng nhân dân tệ với các quốc gia khác ngoài Trung Quốc.
Về phía Ấn Độ, những khó khăn trong quan hệ với Nga đã thúc đẩy chính phủ nước này triển khai một kế hoạch quốc tế hóa đồng rupee, mặc dù hiện tại kế hoạch này vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Quá trình phi đô la hóa trong các mối quan hệ giữa các quốc gia BRICS nhìn chung vẫn là một mục tiêu dài hạn, và sẽ gắn liền với sự thành công của quá trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ hiện nay và đồng rupee Ấn Độ trong một vài thập kỷ tới.
Trần Quyên