Tọa đàm “Các xu hướng liên kết kinh tế mới và kiến nghị chính sách đối với Việt Nam” do Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Bộ Ngoại giao tổ chức vào sáng 24/10. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng tham dự và phát biểu.
Tham dự Tọa đàm có ông Nguyễn Đăng Trung, Phó Vụ trưởng, Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Bộ Ngoại giao chủ trì thảo luận. Các chuyên gia kinh tế hàng đầu đã tham dự và chia sẻ tham luận như: TS. Võ Trí Thành, Chủ tịch Uỷ ban Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương của Việt Nam (VNCPEC); TS. Hoàng Thế Anh, Phó Viện trưởng, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới; Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan, nguyên Tổng Thư Ký, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); TS. Trần Thị Mai Thành, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhiều đại diện đến từ các Viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan liên quan và các đơn vị Bộ Ngoại giao.
Tọa đàm nằm trong khuôn khổ các hoạt động trao đổi chính sách định kỳ của Bộ Ngoại giao với các cơ quan liên quan nhằm triển khai tích cực, hiệu quả Chỉ thị 15 của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030, cũng như nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Thế giới hiện nay đang chứng kiến những thay đổi sâu sắc, toàn diện của cục diện thế giới và khu vực. Trong đó kinh tế thay đổi sâu sắc nhất, đặc biệt là sau đại dịch Covid-19. Nền kinh tế hiện nay đang biến chuyển toàn diện và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nhiều nhân tố cộng hưởng, đặc biệt là vấn đề chính trị hóa, an ninh hóa. Những vấn đề cách đây 2, 3 thập kỷ như giảm thuế quan có lẽ không còn là vấn đề trọng tâm. Kể cả những vấn đề như tham gia đàm phán FTA thế hệ mới, phát triển bền vững, lao động, môi trường cũng rất khác trong tình thế hiện nay.
Tình hình thế giới hiện nay cũng nổi lên hàng loạt vấn đề nóng như: tiến trình carbon, quản lý trí tuệ nhân tạo (AI), quản lý dữ liệu đang nổi lên và trở thành bài toán đặt ra cho tất cả các nước, thể chế quốc tế. Do đó, các nền kinh tế đều đang có sự điều chỉnh mạnh mẽ tư duy, cách thức, trong đó chú trọng yếu tố an ninh kinh tế, tự chủ chiến lược năng lượng và khoáng sản, chuyển đổi mô hình tăng trưởng xanh và bền vững…
Trong tiến trình này, nhiều sáng kiến liên kết kinh tế được dẫn dắt không chỉ bởi nước lớn, mà còn là các nước tầm trung, đang phát triển. Đó là những yếu tố rất mới trong giai đoạn đời sống chính trị, kinh tế thế giới đầy biến động như hiện nay.
Phát biểu tại Toạ đàm, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng nêu bật, vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là nắm bắt xu thế để đưa ra quyết sách phù hợp, trên nguyên tắc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình, ổn định, đa phương hóa, đa dạng hóa độc lập tự chủ, là đối tác tốt, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thứ trưởng Nguyễn Minh Hằng cho biết, Tại Đại hội VIII năm 1996, Việt Nam lần đầu tiên đưa chữ “hội nhập kinh tế” vào văn kiện, với chủ trương xây dựng nền kinh tế hội nhập toàn cầu. Đại hội IX đánh dấu lần đầu tiên đề xuất chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế thế giới”. Trong thời gian qua, Việt Nam đã nắm bắt kịp thời các xu thế và triển khai chủ trương của Đảng hiệu quả, thành công. Cho đến nay, so với các nước trong khu vực, mức độ cởi mở kinh tế của Việt nam khá cao, với 16 FTA được ký kết, đưa Việt Nam trở thành nước có mức độ hội nhập kinh tế hàng đầu khu vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy thương mại đầu tư của Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cục diện đối ngoại thuận lợi để phát triển kinh tế, đã thiết lập mạng lưới quan hệ với tất cả các nước P5, cùng nhiều nước G20, đặc biệt là nâng cấp đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ.
T.S. Võ Trí Thành, Chủ tịch Ủy ban Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương của Việt Nam (VNCPEC) đánh giá dưới tác động của đại dịch Covid-19, xung đột Nga — Ukraina và cạnh tranh chiến lược nước lớn ngày càng gay gắt, phức tạp, đặc biệt giữa Nga, Trung Quốc với Mỹ và phương Tây, làm đứt gãy chuỗi cung ứng — sản xuất toàn cầu, nhất là trong các lĩnh vực thiết yếu, tạo ra các cuộc khủng hoảng về y tế, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, cũng như thúc đẩy phân mảnh, phân tuyến về kinh tế và khoa học – công nghệ.
Đây là những nhân tố then chốt, mang tính cộng hưởng, tạo bước ngoặt làm thay đổi căn bản cục diện hợp tác, cũng như các mô hình và phương thức liên kết kinh tế quốc tế trước đây.
Cụ thể, nhiều nước điều chỉnh tư duy và phương thức hợp tác theo hướng: (i) Chú trọng hơn yếu tố an ninh kinh tế trong hợp tác KTQT, phản ánh rõ nhất qua việc hình thành các chuỗi cung ứng toàn cầu mới (trong các lĩnh vực then chốt, chiến lược) với các đồng minh, đối tác “thân thiện, đồng chí hướng” thay vì tư duy toàn cầu hóa và phân công lao động: (ii) Đầy mạnh tự chủ chiến lược, nhất là trong các lĩnh vực liên quan đến an ninh kinh tế như năng lượng, các nguyên liệu và khoáng sản thiết yếu, công nghệ… với nhiều biện pháp, chính sách khác nhau; (iii) Đầy nhanh chuyền đồi năng lượng hướng tới các mục tiêu về chuyền đồi xanh và phát triển bền vững: (iv) Đầy mạnh tập hợp lực lượng thông qua các cơ chế hiện có, cũng như triển khai các sáng kiến liên kết nhằm thiết lập trật tự, bình ồn mới sau khi cơ bản thích ứng với các khủng hoảng.
Đưa ra nhiều giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian tới, cũng như tham gia của ta vào các liên kết kinh tế mới đề có thể vừa bảo đảm được lợi ích của ta, vừa hạn chế được các mặt không thuận đối với tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, chuyên gia Phạm Chi Lan nêu bật ý nghĩa của việc tham gia chủ động, tích cực ngay từ đầu vào quá trình định hình các quy định, luật lệ tại các sáng kiến liên kết kinh tế mới, thúc đầy tham gia phù hợp, hiệu quả của ta tại các khuôn khổ, cơ chế hợp tác kinh tế đa phương, khu vực như ASEAN, APEC, Mekong, BRL, WTO… nhằm nâng cao vai trò, vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, bảo vệ ngay từ đầu được các lợi ích của ta, thúc đây các lĩnh vực hợp tác ta ưu tiên như chuyển đổi xanh, chuyên đổi số, cơ sở hạ tầng chất lượng cao, khoa học công nghệ… phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức của các cơ quan trong nước, doanh nghiệp và địa phương, xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ trong nước nhằm tận dụng hiệu quả các cơ hội và lợi ích đem lại từ các FTA hiện có, hạn chế các tác động không thuận của hội nhập.
Các xu hướng liên kết kinh tế mới và kiến nghị chính sách đối với Việt Nam được các chuyên gia đưa ra tại Tọa đàm cũng phù hợp với những điểm mới của Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030, định hướng quan trọng cho công tác ngoại giao kinh tế trong giai đoạn phát triển chiến lược mới của đất nước. Theo Chỉ thị 15-CT/TW của Ban Bí thư, ngoại giao kinh tế được xác định là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của ngoại giao Việt Nam; một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đóng vai trò tiên phong trong huy động các nguồn lực bên ngoài. Điều này khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác ngoại giao kinh tế trong thời gian tới.
Để triển khai Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chủ trì hai Hội nghị đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước tháng 9/2022 và Hội nghị tổng kết công tác ngoại giao vaccine và bài học kinh nghiệm ddể thúc đẩy công tác ngoại giao kinh tế trong tình hình mới tháng 11/2022. Trên cơ sở chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Ngoại giao rút ra năm bài học quan trọng nhằm tiếp tục triển khai hiệu quả, thực chất công tác ngoại giao kinh tế trong thời gian tới, đó là
Thứ nhất, kiên định và nhất quán triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chính sách là then chốt, phải nắm chắc tình hình để xác định các giải pháp phù hợp và quyết liệt, sáng tạo, kịp thời trong triển khai.
Thứ ba, càng khó khăn, phức tạp, nhạy cảm thì càng phải bình tĩnh, sáng suốt, kiên trì, kiên định chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, luôn đổi mới phương pháp, cách làm phù hợp với tình hình mới, tất cả vì mục tiêu phục vụ đất nước và nhân dân.
Thứ tư, sự chủ động, sáng tạo của các bộ, ngành, cơ quan đại diện ngoại giao cũng như tinh thần, trách nhiệm của từng cán bộ là hết sức quan trọng.
Thứ năm, cần huy động sự đoàn kết thống nhất, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp vì mục tiêu chung.
Chu Văn