Trong những tháng đầu năm nay, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường EU có sự tăng giảm đan xen.
Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 7/2024, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ ước đạt hơn 550 triệu USD, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2023.
Tất cả các nhóm mặt hàng cá ngừ xuất khẩu đều tăng trong thời gian này; trong đó, cá ngừ đông lạnh có chiều hướng tăng giá trị, đạt mức cao nhất từ đầu năm đến nay với hơn 44 triệu USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm trước, có xu hướng ngày càng tăng cho đến cuối năm 2024. Trong khi đó, các sản phẩm cá ngừ đóng hộp lại giảm 11%, ước đạt gần 20 triệu USD.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu cá ngừ sang các thị trường chính như Mỹ, châu Âu hay Israel vẫn tiếp tục tăng trong những tháng qua, lần lượt là 18%, 56% và 50%.
Tuy nhiên, tháng 7/2024, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm so với cùng kỳ, giảm 14%. Bước sang nửa đầu tháng 8, mặc dù xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang khối này tăng, nhưng xuất khẩu các sản phẩm cá ngừ đóng hộp tiếp tục giảm mạnh.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU tính đến hết ngày 15/8/2024 tăng 28% so với cùng kỳ năm 2023, đạt hơn 133 triệu USD.
Theo VASEP, hiện cá ngừ đóng hộp là sản phẩm chính xuất sang EU, chiếm gần 39% tổng kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang thị trường này (lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/8).
Trong những tháng đầu năm nay, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường EU có sự tăng giảm đan xen. Sau khi tăng trưởng liên tục từ tháng 3 đến tháng 6, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ sang EU đã giảm tới 14% trong tháng 7.
Theo VASEP, Mỹ và EU chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam. Trong 5 tháng đầu năm 2024, Mỹ chiếm 37% và EU chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam. Cả hai thị trường này đều ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ, với Mỹ tăng 22% và EU tăng 36% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy nhu cầu tiêu thụ cá ngừ của Việt Nam tại hai thị trường này vẫn rất lớn.
Ngoài Mỹ và EU, các thị trường như Israel, Nga và Hàn Quốc cũng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong xuất khẩu cá ngừ từ Việt Nam. Theo VASEP, 5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cá ngừ sang Israel tăng 55% so với cùng kỳ năm trước, sang Nga tăng 70%, và sang Hàn Quốc tăng 76%. Đây là những thị trường tiềm năng mà ngành cá ngừ Việt Nam có thể khai thác thêm trong tương lai.
Ngành cá ngừ của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển trong năm 2024, đặc biệt khi nhu cầu tiêu thụ cá ngừ trên thế giới đang có xu hướng tăng. Thị trường Mỹ và EU vẫn sẽ là hai thị trường chính, nhưng các thị trường tiềm năng như Israel, Nga và Hàn Quốc cũng đang mở ra nhiều cơ hội mới.
Về xu hướng sụt giảm xuất khẩu cá ngừ sang EU trong tháng 7/2024, VASEP tổng hợp ý kiến từ các doanh nghiệp cho biết, nguyên nhân là do hạn ngạch ưu đãi thuế quan đang dần hết và doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn cung cá ngừ vằn có xuất xứ thuần túy ở Việt Nam (nguyên liệu chủ lực của ngành chế biến và xuất khẩu cá ngừ đóng hộp).
Nghị định 37/2024/NĐ-CP (có hiệu lực từ 19/5/2024) quy định về kích cỡ chiều dài nhỏ nhất cho phép khai thác đối với cá ngừ vằn là 0,5m. Theo VASEP, quy định này đang khiến cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá ngừ không mua được nguyên liệu cá ngừ đúng theo quy định mới.
Một số doanh nghiệp cá ngừ đã dừng hoàn toàn việc thu mua nguyên liệu cá ngừ vằn khai thác trong nước do không đảm bảo kích cỡ 100% đạt 0,5m trở lên. Hầu hết các cảng cá hiện nay đã ngừng xác nhận nguyên liệu (giấy S/C) cho các lô hàng cá ngừ vằn do kích thước cá khai thác nhỏ hơn quy định của Nghị định 37.
Trong khi đó, tại cuộc họp bàn về một số khó khăn, vướng mắc khi thực hiện Nghị định số 37 diễn ra ngày 30/8 tại Hà Nội vừa qua, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hải sản Việt Nam Nguyễn Khắc Bát cho rằng, nguồn lợi hải sản biển Việt Nam từ năm 2005 đến nay đã giảm trên 30%, nhất là đối với nhóm cá đáy. Đối với cá ngừ vằn, nguồn lợi đã giảm 80% giai đoạn 2000 – 2005 đến nay.
Do đó, đại diện Viện Nghiên cứu hải sản đề xuất cần có biện pháp quản lý nguồn lợi thủy sản hiệu quả. Thế giới hiện nay không chỉ áp dụng biện pháp quản lý đầu vào mà còn cả đầu ra đối với nguồn lợi thủy sản. Quản lý đầu vào gồm cường lực khai thác, số lượng tàu thuyền, bảo tồn, kích thước khai thác…. trong khi quản lý đầu ra bao gồm quản lý thông qua hạn ngạch khai thác, tổng sản lượng khai thác cho phép…
Ngoài ra, theo VASEP, hơn 50% giá trị xuất khẩu cá ngừ được tạo ra từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu do khai thác trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu cho chế biến xuất khẩu và không ổn định. Nhiều doanh nghiệp phản ánh khó khăn trong việc làm giấy xác nhận nguyên liệu (S/C) do các vấn đề về an toàn thực phẩm tàu cá hoặc khai thác ở vùng biển không đúng quy định.
Hệ thống giám sát hành trình trên các tàu cá cũng gặp nhiều trục trặc, dẫn đến việc mất kết nối giám sát hành trình, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm giấy S/C của doanh nghiệp. Điều này gây ra nhiều khó khăn trong quá trình xuất khẩu và sản xuất của các doanh nghiệp.
Để khắc phục những thách thức hiện tại, ngành cá ngừ Việt Nam cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng và ổn định nguồn nguyên liệu trong nước. Điều này bao gồm việc đầu tư vào công nghệ khai thác, bảo quản và chế biến cá ngừ, cũng như cải thiện hệ thống giám sát và quản lý tàu cá. Đồng thời, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và ngư dân để đảm bảo việc tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm và bảo vệ nguồn lợi hải sản.
Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và chất lượng của ngành cá ngừ. Các doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ hiện đại để tối ưu hóa quy trình chế biến, bảo quản và vận chuyển cá ngừ. Điều này không chỉ giúp giảm thiểu chi phí sản xuất mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường quốc tế.
Nhìn chung, triển vọng của ngành cá ngừ Việt Nam trong năm 2024 là rất tích cực. Tuy nhiên, để duy trì đà tăng trưởng này các thách thức hiện tại cần được giải quyết và các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do được tận dụng tối đa. Việc chú trọng đến công nghệ, bảo vệ môi trường, tuân thủ chống khai thác IUU và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ giúp ngành cá ngừ Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Hải An