Sau bốn năm chính quyền Donald Trump thực hiện cách tiếp cận từng phần về thương mại với châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ hiện đang đứng ngoài các hiệp định thương mại quan trọng nhất của khu vực này và ở một vị trí khó khăn trong việc tái tham gia với các bên đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu, bảo mật và đổi mới công nghệ.
Khi Mỹ đứng bên lề, các bên tham gia lớn khác – đặc biệt là Liên minh châu Âu (EU) và Anh – đã tiến lên đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác quan trọng trong khu vực. Trong khi đó, hội nhập khu vực ở châu Á – Thái Bình Dương đã phát triển.
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) – một thỏa thuận thương mại giữa 15 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương đã được ký kết vào cuối năm 2020 – và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – một thỏa thuận giữa 11 quốc gia sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đầy tham vọng hơn – là hai yếu tố lớn nhất của cấu trúc thương mại châu Á – Thái Bình Dương mới, và Mỹ hiện cũng không là thành viên của hai hiệp định đó. Việc tham gia CPTPP vẫn có ý nghĩa đối với Mỹ, nhưng chính quyền Joe Biden hiện đang tập trung các ưu tiên trong nước để xử lý đại dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế. Ngay cả khi đó, việc nối lại thỏa thuận thương mại cũng đòi hỏi phải giải quyết những lo ngại lâu nay về các điều khoản về lao động và môi trường.
Nhưng theo phân tích của Viện Nghiên cứu quốc tế Hoàng gia Anh (Chatham House), vẫn còn một chặng đường phía trước, nếu phương pháp tiếp cận ba trụ cột có thể được áp dụng, trong đó gắn kết các sáng kiến mới với nhau thành một chiến lược thương mại toàn diện và chặt chẽ của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Thứ nhất: Các thỏa thuận theo ngành cụ thể, bắt đầu với kỹ thuật số: Trong trường hợp không có các hiệp định thương mại tự do song phương hoặc khu vực đầy đủ, Mỹ có thể ưu tiên các hiệp định chuyên ngành phù hợp với các yêu cầu của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong khi các lĩnh vực như hàng hóa y tế – do đại dịch – hoặc môi trường – do khủng hoảng khí hậu – có thể được xem xét, thương mại kỹ thuật số thực sự là lĩnh vực rõ ràng nhất cần tập trung.
Một thỏa thuận có thể được xây dựng dựa trên các quy tắc thương mại kỹ thuật số của CPTPP và Hiệp định Thương mại kỹ thuật số Mỹ – Nhật năm 2019, cũng như song hành với sáng kiến hiện có về một hiệp định đa phương về thương mại điện tử. Dẫn đầu là Australia, Singapore và Nhật Bản, các cuộc đàm phán đã được khởi động vào năm 2019 và hiện bao gồm 86 trong số 164 thành viên WTO.
Ấn Độ đáng chú ý khi vắng mặt trong các cuộc đàm phán thương mại điện tử cũng như cả RCEP và CPTPP. Mỹ biết rằng cam kết với Ấn Độ – một trong những thị trường kỹ thuật số lớn nhất và phát triển nhanh nhất thế giới – là rất quan trọng, nhưng nó liên quan đến việc giải quyết những khác biệt lớn liên quan đến các luồng dữ liệu xuyên biên giới. Tuy nhiên, 10 quốc gia thành viên ASEAN đang thúc đẩy thương mại kỹ thuật số và do đó có thể là đối tác tự nhiên của Mỹ trong việc thúc đẩy một thỏa thuận chuyên ngành.
Thứ hai: Các sáng kiến để tăng cường chuỗi cung ứng: Hợp tác với các đồng minh chủ chốt trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương là rất quan trọng đối với những nỗ lực của Mỹ nhằm tăng cường khả năng phục hồi của các chuỗi cung ứng quan trọng, chẳng hạn như dược phẩm và chất bán dẫn. Vào năm 2020, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ đã khởi động ‘Sáng kiến khả năng phục hồi chuỗi cung ứng’ cho khu vực nhưng sáng kiến này được mở cho các quốc gia cùng chí hướng và Mỹ có thể tham gia. Mỹ chia sẻ nhiều mối quan tâm về chuỗi cung ứng của nhóm, đặc biệt liên quan đến sự phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc. Nhưng quan trọng hơn, nếu sáng kiến phục hồi chuỗi cung ứng bao gồm Mỹ, thì các đối tác có thể sắp xếp chặt chẽ hơn với sự hình thành và nỗ lực của “Bộ tứ kim cương”- đối thoại 4 nước tập trung vào an ninh giữa Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ.
Đài Loan là một điểm tắc nghẽn trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn toàn cầu, vì Công ty Sản xuất chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) là nhà sản xuất chip lớn nhất thế giới và đã bị cuốn vào làn sóng căng thẳng địa chính trị và cạnh tranh công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Cả Mỹ và Đài Loan đều sẽ được phục vụ tốt bằng cách tăng cường hợp tác thương mại – mặc dù một hiệp định thương mại toàn diện khó có thể xảy ra – và tăng cường an ninh chuỗi cung ứng cho chất bán dẫn.
Thứ ba: Một cách tiếp cận chiến lược và chặt chẽ đối với Trung Quốc: Một chính sách thương mại mới của Mỹ đối với Trung Quốc là cần thiết, nhưng cho đến nay, chính quyền Biden không có dấu hiệu thay đổi ngay lập tức đối với các mức thuế do chính quyền Trump áp đặt và dường như có khả năng Trung Quốc phải thực hiện các cam kết trong thỏa thuận giai đoạn 1 đã ký hồi tháng 1/2020. Một yếu tố trong chính sách thương mại Trung Quốc của chính quyền Trump được duy trì – và đang mở rộng – là sáng kiến ba bên Mỹ – EU – Nhật Bản nhằm giải quyết các chính sách trợ cấp và chính sách thương mại phi định hướng thị trường. Sự phối hợp nhiều hơn của Mỹ với các đồng minh gây áp lực buộc Bắc Kinh phải thay đổi các chính sách thương mại bóp méo thị trường và có thể giúp các nỗ lực buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Nhưng một chính sách thương mại mới của Mỹ đối với Trung Quốc cũng đòi hỏi một cách tiếp cận đa phương cân bằng thận trọng – một cách tiếp cận có cơ sở vững chắc là thực thi các quy định của WTO để khiến Trung Quốc tuân thủ các cam kết của mình, đồng thời tham gia với Trung Quốc để cập nhật quy tắc và tạo ra cải cách WTO có ý nghĩa. Đối với một cách tiếp cận toàn diện, hai trụ cột của chiến lược thương mại châu Á – Thái Bình Dương rộng lớn hơn cần củng cố và hỗ trợ chiến lược thương mại mới của Mỹ đối với Trung Quốc, nhưng chắc chắn, điều này liên quan đến việc điều chỉnh các mối quan hệ phức tạp và quan hệ thương mại mạnh mẽ mà nhiều đồng minh của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương có với Trung Quốc. Tuy nhiên, việc đưa ra một chiến lược tập trung vào ba trụ cột liên kết này mang lại nền tảng vững chắc cần thiết để chuyển đổi thành công chính sách thương mại của Mỹ trong khu vực.
(Việt Dũng/congthuong.vn)