Australia được cho là “quốc gia may mắn”. Với tài nguyên thiên nhiên phong phú, sản xuất gấp ba lần nhu cầu năng lượng trong nước và xuất khẩu 70% sản phẩm nông nghiệp, Australia giúp cung cấp năng lượng và lương thực cho Đông Á – khu vực kinh tế năng động nhất thế giới ở phía Bắc.
Vị trí địa lý cô lập của Australia so với các trung tâm chính trị-văn hóa và đối tác kinh tế châu Âu trước đây từng được than phiền là “chế độ độc tài của khoảng cách”. Tuy nhiên, ngày nay, địa lý của Australia không còn nghi ngờ gì nữa là một lợi thế, với khoảng cách tương đối gần với các thị trường Đông Á và khoảng cách tuyệt đối xa khỏi các mối đe dọa an ninh quân sự.
Sự hội nhập kinh tế của Australia với Đông Á và các cải cách kinh tế mang tính cách mạng vào những năm 1980 đã giúp quốc gia này duy trì ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế mà không có suy thoái cho đến đại dịch COVID-19. Các thị trường linh hoạt trong nước, một khuôn khổ vĩ mô nhằm đạt được việc làm đầy đủ và chính sách mở cửa quốc tế đã giúp nền kinh tế Australia tiếp tục tăng trưởng qua cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990, mặc dù hai phần ba thương mại của Australia hướng tới khu vực này, và tránh được suy thoái trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu một thập kỷ sau đó.
Kinh nghiệm này phần nào giải thích lý do tại sao Australia phần lớn tránh được phản ứng tiêu cực đối với toàn cầu hóa mà các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến khác phải đối mặt. Chính trị của Australia cũng góp phần vào điều này: một ủy ban bầu cử độc lập, hệ thống bỏ phiếu bắt buộc và hệ thống bỏ phiếu ưu tiên khuyến khích các đảng chính trị lớn ưu tiên những mối quan tâm thực tiễn của cử tri trung bình thay vì kích động sự phân biệt đảng phái. Nhờ vậy, lợi ích của tăng trưởng đã được chia sẻ rộng rãi trong một xã hội khá công bằng.
Australia sẽ không thể đạt được nhiều nếu không tận dụng lợi thế may mắn của mình.
Trong bài viết mở đầu tuần này, Adam Triggs và Charlie Barnes giải thích rằng mức sống của người dân Australia hiện nay đang giảm sút. “Một thống kê tóm tắt những thách thức mà nền kinh tế Australia đang đối mặt,” họ lập luận, “kể từ cuộc bầu cử liên bang cuối cùng vào năm 2022, người dân Australia đã mất đi hơn 10 năm tăng trưởng thu nhập thực tế.”
Trong khi thu nhập khả dụng thực tế trên đầu người tại các quốc gia OECD đã tăng 8,9% từ cuối năm tài chính 2018–19 đến cùng kỳ năm 2024, thì tại Australia, con số này đã giảm 1,4%.
Các vấn đề cơ cấu đã khiến tăng trưởng năng suất đình trệ trong ít nhất một thập kỷ qua, nhưng chúng đã được che đậy nhờ vào lợi nhuận từ xuất khẩu quặng sắt và các khoáng sản khác sang Trung Quốc, quốc gia đang thiếu tài nguyên.
Vào năm 2018, tạp chí The Economist đã mô tả Australia là “có thể là nền kinh tế giàu có thành công nhất thế giới” nhờ vào thu nhập tăng, nợ công thấp, hệ thống phúc lợi hợp lý và sự ủng hộ rộng rãi đối với nhập cư.
Ngày nay, thu nhập đang giảm, nợ công đang gia tăng, hệ thống phúc lợi đang gặp áp lực từ hệ thống bảo hiểm khuyết tật đang phát triển nhanh chóng, và chính phủ đang gặp khó khăn trong việc quản lý chính trị của làn sóng nhập cư hậu đại dịch.
Ảnh hưởng của nhập cư cao đối với giá nhà đã khiến cả hai đảng chính trị kêu gọi cắt giảm mạnh nhập cư, Triggs và Barnes lưu ý. Điều này bao gồm cả sinh viên quốc tế, “mặc dù giáo dục quốc tế là ngành xuất khẩu lớn thứ ba của Australia”. Nếu không có nhập cư, Australia đã có thể rơi vào suy thoái vào năm 2022. Chính sách hạn chế số lượng sinh viên quốc tế và thiệt hại đối với ngành giáo dục đại học vì giá thuê nhà tăng cao tương tự như việc hạn chế xuất khẩu quặng sắt — mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Australia — vì thành công của nó làm tăng tỷ giá hối đoái.
Nguồn gốc của mức sống cao ở Australia là sự chuyên môn hóa quốc tế trong một phạm vi hẹp các mặt hàng và dịch vụ, cùng với sự mở cửa đối với đầu tư nước ngoài. Các thể chế của Australia – như tỷ giá hối đoái linh hoạt và khuôn khổ kinh tế vĩ mô được quản lý khá tốt – giúp nền kinh tế điều chỉnh được những thay đổi lớn trong nhu cầu toàn cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của mình mà không bị rơi vào suy thoái.
Chính phủ trung tả của Đảng Lao động do Thủ tướng Anthony Albanese đứng đầu đã gia nhập xu hướng toàn cầu về chủ nghĩa hoạt động và can thiệp vào thị trường, công bố kế hoạch Future Made in Australia để giúp giảm phát thải carbon, làm cho nền kinh tế bền vững hơn và biến Australia thành một siêu cường năng lượng tái tạo. Chính phủ đã cam kết 22,7 tỷ AUD (14,2 tỷ USD) dưới dạng trợ cấp, viện trợ và các ưu đãi đầu tư để thúc đẩy công nghệ xanh và sản xuất tiên tiến.
Tuy nhiên, nếu không có một khuôn khổ rõ ràng, Future Made in Australia có thể chỉ là một công thức cho sự lãng phí, với các trợ cấp được trao cho ngành sản xuất mà có thể làm tốt hơn và rẻ hơn ở nơi khác. Với lý do làm cho nền kinh tế bền vững và an toàn hơn, kế hoạch này có thể sẽ đạt được kết quả hoàn toàn ngược lại.
Với nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo phong phú, Australia đang ở vị thế để tạo ra vận may mới thông qua việc chuyển đổi quan hệ kinh tế với Trung Quốc, Nhật Bản và phần còn lại của Đông Á thông qua việc xuất khẩu năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, điều thiếu sót trong chương trình nghị sự chính trị của Australia là những cải cách cần thiết trong các thị trường lao động và các thị trường khác, cùng với một chế độ đầu tư nước ngoài mở cửa trở lại với dòng vốn đầu tư nước ngoài lớn, bao gồm cả từ Trung Quốc, để giúp đạt được mục tiêu này. Với một cuộc bầu cử dự kiến vào nửa đầu năm 2025, không đảng chính trị lớn nào có chiến lược cải cách sẽ nâng cao mức sống và phục hồi tăng trưởng thực tế theo cách này.
Nếu không muốn để vận may của mình trôi qua, Australia cần một chương trình cải cách phù hợp với cấu trúc nền kinh tế và vị thế mới của mình trên thế giới.
(theo East Asia Forum)