Bối cảnh thế giới ảnh hưởng đến ổn định tài chính toàn cầu và khuyến nghị cho Việt Nam

0
8

Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn khó khăn, bất định nhất trong nhiều thập kỷ. Xu hướng điều chỉnh chính sách tiền tệ thắt chặt trên toàn cầu, áp lực lạm phát cao, tăng trưởng kinh tế trì trệ khiến hệ thống tài chính toàn cầu trải qua nhiều biến động và đối mặt các rủi ro. Hệ thống tài chính toàn cầu hiện nay bị chi phối và tác động bởi nhiều yếu tố.

Lạm phát cao, kéo dài

Đại dịch Covid-19 bùng phát đã nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu và gây thiệt hại nặng nề, làm gián đoạn chuỗi cung ứng thương mại quốc tế do các chuỗi cung ứng từ nguyên liệu dược phẩm, thực phẩm, điện tử và thiết bị y tế của thế giới đều phụ thuộc vào Trung Quốc. Báo cáo của Nhóm Ngân hàng thế giới (WBG) cho thấy, năm 2020, GDP toàn cầu giảm 5,2% – mức suy thoái sâu nhất trong 8 thập niên (1940 – 2020). Trong số 14 đợt suy thoái toàn cầu, đợt suy thoái do đại dịch Covid-19 gây ra được đánh giá đứng thứ tư về độ sâu, khiến tỷ trọng thương mại hàng hóa năm 2020 giảm từ 13% – 32%.

Tháng 02/2022, thế giới vừa bước ra khỏi bầu không khí u ám của hai năm đại dịch Covid-19 đã phải chịu tác động rất tiêu cực của hàng loạt cuộc khủng hoảng: xung đột Nga – Ucraina, cạnh tranh địa chính trị, khủng hoảng Biển Đỏ, biến đổi khí hậu, … Thị trường năng lượng, tài chính, tiền tệ chao đảo, lạm phát tăng vọt khiến hàng loạt nước phải chống đỡ bằng cách tăng lãi suất. Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Lạm phát toàn cầu năm 2022 là 8,8%, tăng gần gấp đôi so với mức lạm phát 4,7% của năm 2021.

Trước tình trạng lạm phát và lãi suất cao, nhiều nước duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt. Chính sách này tạo áp lực cho một số ngân hàng, cả trực tiếp (thông qua chi phí huy động vốn cao hơn) và gián tiếp (do rủi ro tín dụng ngày càng tăng). Lãi suất thực tăng ở hầu hết các nền kinh tế, ngoại trừ Nhật Bản, khuyến khích tiết kiệm, khiến đầu tư trở nên đắt đỏ hơn. Nợ công ở nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển và kém phát triển, có xu hướng tăng cao. Theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới tháng 10/2023 của IMF, trong 20 nền kinh tế phát triển, 11 quốc gia có tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP năm 2023 ở mức hơn 100%. Đứng đầu là Nhật Bản với 255%, tiếp sau là Hy Lạp và Singapore với 168%, nhóm G7 trung bình là 128%. Trong khi đó, các nước nghèo và đang phát triển cũng đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công trầm trọng, gia tăng nguy cơ vỡ nợ.

Cạnh tranh các nước lớn diễn ra gay gắt

Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, nền kinh tế thế giới đã và đang chịu tác động mạnh mẽ của xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế – thương mại. Tuy nhiên, sự điều chỉnh chính sách, đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược của các nước lớn, làn sóng chống toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, xu hướng cường quyền, dân tộc cực đoan trỗi dậy, sự phát triển vượt bậc về khoa học – công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy sự hình thành, vận động một trật tự kinh tế thế giới với nhiều xu hướng mới. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ và Nga trở nên quyết liệt, đối đầu trực diện trên các lĩnh vực, tập trung vào khía cạnh kinh tế.

Sau khi Nga mở chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ucraina, Mỹ cùng với các nước phương Tây đã áp đặt một loạt lệnh trừng phạt chống lại Nga. Đáp lại, Nga cũng tuyên bố một số biện pháp đáp trả về kinh tế – tài chính, năng lượng và một số biện pháp khác. Rõ ràng, những biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga và các biện pháp trừng phạt trả đũa của Nga đã và đang tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu, cản trở tiến trình phục hồi kinh tế thế giới sau đại dịch Covid-19, làm trầm trọng thêm các cuộc khủng hoảng về giá cả, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, gia tăng chia rẽ giữa các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Nga tăng cường thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia khác. Mối quan hệ Trung Quốc và Nga tiến gần nhau hơn bao giờ hết. Trung Quốc trở thành thị trường tiêu thụ dầu khí số 1 của Nga, giúp Nga đứng vững sau những nỗ lực trừng phạt kinh tế từ Mỹ và châu Âu. Hiện Nga là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nga.

Hợp tác ngày càng chặt chẽ giữa Nga, Trung Quốc và các nước phản đối phương Tây tạo ra xu hướng phi đô la hóa và hình thành các thiết chế cạnh tranh với hệ thống Bretton Woods. Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 15 của BRICS, Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi đã thảo luận để tìm kiếm các giải pháp thay thế đồng USD. Theo dữ liệu từ IMF, tỉ trọng của đồng USD trong dự trữ ngoại tệ toàn cầu đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần ba thập kỷ là 58% trong quý 4 năm 2022. Nhiều quốc gia đã bắt đầu chuyển hướng khỏi đồng đô la Mỹ trong các giao dịch xuyên biên giới. Nga cũng đã chuyển gần như toàn bộ giao dịch năng lượng của mình sang các loại tiền tệ quốc gia, đặc biệt là đồng rúp và nhân dân tệ. Trong khi đó, sự hiện diện của đồng nhân dân tệ trên thị trường toàn cầu ngày càng tăng. Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tỉ lệ giao dịch ngoại hối phi tập trung toàn cầu của nhân dân tệ đã tăng từ gần như bằng 0 cách đây 15 năm lên 7% vào năm 2023.

Căng thẳng địa chính trị có thể dẫn đến bất ổn tài chính thông qua việc đảo ngược đột ngột quan hệ dòng vốn xuyên biên giới; gây khó khăn cho hoạt động thanh toán quốc tế và làm suy giảm giá tài sản, đặc biệt là đối với các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị còn có thể tác động gián tiếp đến ổn định tài chính thông qua các hạn chế đối với thương mại quốc tế và chuyển giao công nghệ cũng như sự gián đoạn đối với chuỗi cung ứng và thị trường hàng hóa, qua đó có thể ảnh hưởng đến tính thanh khoản và khả năng sinh lời của các tập đoàn phi tài chính, tạo ra rủi ro tín dụng cho các ngân hàng và làm suy yếu sự ổn định tài chính vĩ mô.

Vai trò các nước đang phát triển gia tăng

Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước mới nổi tăng trưởng mạnh mẽ, dần xác lập vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế thế giới. Các nền kinh tế mới nổi như BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi) đã thay đổi mạnh mẽ tương quan lực lượng kinh tế toàn cầu. BRICS đã vượt qua G7 về tổng GDP và hiện chiếm hơn 42% dân số toàn cầu, trong khi G7 chỉ chiếm khoảng 14%. Cùng với tiềm lực kinh tế, vai trò các nước đang phát triển dần được xác lập trong hệ thống quản trị toàn cầu thể hiện qua xu thế mở rộng các tổ chức khu vực và quốc tế trong những năm gần dây.

Năm 2023-2024, nhóm BRICS và G20 chào đón các thành viên mới, chứng tỏ vai trò ngày càng tăng của các nước đang phát triển trong các vấn đề toàn cầu, thúc đẩy trật tự thế giới đa cực và công bằng hơn. Bốn nước gồm Ai Cập, UAE, Ethiopia, Iran chính thức trở thành thành viên của BRICS từ ngày 01/01/2024. Việc BRICS (với mục tiêu nâng cao tiếng nói, vai trò các nước đang phát triển) nâng tổng số thành viên lên 09 nước và tiếp tục mở rộng cho thấy uy tín và vai trò ngày càng lớn của nhóm này trong các vấn đề khu vực và quốc tế, mở ra giai đoạn hợp tác mới. Đối với G20, tại Hội nghị thượng đỉnh diễn ra tại Ấn Độ tháng 9/2023, G20 đã cấp tư cách thành viên thường trực cho Liên minh châu Phi (AU). Việc AU gia nhập G20 là cơ hội để các nước đang phát triển thể hiện quan điểm và góp phần định hình các quyết định của nhóm này. Với việc gia nhập của AU, Các nước Nam bán cầu tiếp thêm nguồn lực, góp phần nâng cao tầm ảnh hưởng của G20, một diễn đàn đóng vai trò quan trọng đối với các chương trình nghị sự toàn cầu và đóng góp khoảng 85% GDP toàn cầu, chiếm khoảng 2/3 dân số thế giới.

Bên cạnh vai trò chủ đạo của các nước lớn trong lĩnh vực kinh tế đang suy giảm, các nước vừa và nhỏ ngày càng vươn lên giành vị trí tương xứng. Sự thay đổi trong quan hệ Bắc – Nam, trong đó vai trò của các nước vừa và nhỏ đã tăng lên đáng kể. Độ lớn về địa lý, quy mô kinh tế và triển vọng phát triển là những nhân tố quyết định để khu vực châu Á – Thái Bình Dương vươn lên trở thành trung tâm địa – chính trị toàn cầu, kéo theo xu thế liên kết kinh tế – thương mại được thúc đẩy mạnh mẽ tại khu vực.

Các thách thức từ an ninh mạng

An ninh mạng đang là một thách thức lớn trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trên thế giới. Cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, hội nhập quốc tế mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tội phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán xuất hiện ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp, nhất là nạn sản xuất, lưu hành tiền giả, đột nhập vào hệ thống ngân hàng phá vỡ hệ thống bảo mật để ăn cắp dữ liệu nhằm chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp và cơ sở tài chính, ăn cắp thông tin bảo mật, tin tặc, trộm cắp tiền qua ngân hàng bằng thiết bị công nghệ cao… Việc chuyên nghiệp hóa các hoạt động gian lận thuế giờ đây đã đạt một mức độ kỹ thuật tinh vi chưa từng thấy.

Mạng Internet cho phép người dùng được ẩn danh và mọi thứ đều có thể mã hóa. Mạng Internet là nơi vô cùng thuận tiện để rửa tiền hoặc chuyển các khoản tiền bẩn bằng cách chuyển đổi chúng thành các loại tiền ảo như bitcoin, litecoin, dolid coin, ripple, v.v. Bên cạnh đó, giới tội phạm đang triệt để tận dụng sự phát triển của công nghệ thông tin để xâm nhập vào các tài khoản ngân hàng, đánh cắp mã thẻ tín dụng. Những hoạt động tội phạm này mang những đặc điểm mới, với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp và được thúc đẩy bởi những tiến bộ trong công nghệ kỹ thuật số, được thực hiện bởi hàng trăm ngàn người. Hoạt động rửa tiền quy mô công nghiệp diễn ra phổ biến khắp Malaysia, Thái Lan, cũng như tại các trung tâm tài chính như Singapore, Hồng Công và Dubai… nơi các nhóm tội phạm lợi dụng các lỗ hổng chiến lược trong hệ thống tài chính và đầu tư mạnh vào các công nghệ tài chính tiên phong mà cơ quan thực thi pháp luật chưa hiểu rõ.

Chuyển đổi số mạnh mẽ, thương mại xuyên biên giới bùng nổ

Đại dịch Covid 19 cũng thúc đẩy quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những đổi mới kỹ thuật số lẽ ra có thể diễn ra trong 10-20 năm tới đã được thúc đẩy mạnh mẽ trong vài năm qua kể từ đại dịch Covid-19. Chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, ảnh hưởng sâu sắc đến các dịch vụ, quy trình và mô hình kinh doanh, thể hiện qua các đặc điểm sau:

(i) Các dịch vụ thanh toán kỹ thuật số đang phát triển mạnh, đặc biệt tại khu vực Đông Nam Á.

(ii) Các công nghệ mới như blockchain, trí tuệ nhân tạo (AI), mạng 5G, và IoT đang phát triển rất nhanh chóng. Các công nghệ này sẽ thay đổi nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm sản xuất, năng lượng, giao thông, và tài chính. Các công nghệ mới như FinTech và tiền điện tử sẽ góp phần thay đổi cách con người kinh doanh và quản lý tài chính..

(iii) Số hóa chuỗi cung ứng tài chính như số hóa trong logistics và quản lý chuỗi cung ứng cũng rất cần thiết để giảm chi phí và tăng cường hiệu quả cho thương mại điện tử.

(iv) Sự gia tăng của tài sản kỹ thuật số và các hình thức trung gian tài chính mới trong và ngoài biên giới cũng sẽ định hình hệ thống tiền tệ quốc tế. Yếu tố đó có thể thay đổi cơ bản bối cảnh tài chính vĩ mô toàn cầu (UNCTAD 2024).

Xu thế tăng trưởng xanh, phát triển bền vững 

Chuyển đổi nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế xanh, phát triển bền vững là xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới bởi chính những lợi ích về cả kinh tế, môi trường và xã hội mang lại như tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong đó, đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, giảm sử dụng năng lượng hoá thạch và chú trọng sử dụng năng lượng một cách hiệu quả đã diễn ra trong thời gian gần đây.

Trung Quốc là một ví dụ điển hình về sự cấp thiết lựa chọn tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế xanh. Sau hơn 45 năm mở cửa và phát triển mạnh mẽ theo chiều rộng, bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường và hệ sinh thái suy giảm nghiêm trọng, thiếu hụt lớn nguồn tài nguyên và năng lượng cho phát triển kinh tế. Thách thức đó đã buộc Trung Quốc phải chuyển dịch từ phương thức phát triển kinh tế tiêu hao nhiều tài nguyên sang phương thức tiết kiệm tài nguyên, nhấn mạnh bảo vệ môi trường và tăng trưởng xanh, khuyến khích đổi mới kỹ thuật, sản xuất xanh và phát triển bền vững.

Tại Hàn Quốc, từ năm 2008, Chính phủ đã dành 80% trong gói kích cầu kinh tế khoảng 38,1 tỷ USD để dùng cho sự chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế xanh, xây dựng hệ thống vận tải xanh, bao gồm đường sắt thải ít khí carbon và 3.000 km đường xe đạp quanh bốn con sông xanh. Khoảng 2 triệu ngôi nhà xanh và văn phòng làm việc sử dụng ít năng lượng và điện sẽ được xây dựng tại quốc gia này.

Mỹ đưa ra Đạo luật Giảm lạm phát (IRA) vào tháng 8/2022 nhằm trợ cấp các ngành giảm phát thải các-bon, năng lượng sạch thông qua tín dụng thuế, hỗ trợ phát triển công nghệ; đề xuất áp thuế nhập khẩu với các hàng hóa sử dụng nhiều năng lượng.

EU đề xuất Đạo luật Công nghiệp không phát thải (NZIA) nhằm phát triển các ngành công nghệ sạch, chuyển đổi xanh thông qua thiết lập quỹ tài chính xanh chung của EU, cũng như thu hút thêm nguồn vốn tư nhân; hỗ trợ đổi mới sáng tạo thông qua cơ chế thử nghiệm (sandbox); điều phối thúc đẩy quan hệ đối tác trong các ngành công nghiệp không phát thải. Bên cạnh đó, EU đã quyết định thử nghiệm CBAM từ ngày 01/01/2023. Đây là một cơ chế xanh đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài EU thông qua hệ thống định giá hợp lý lượng các-bon thải ra trong quá trình sản xuất nhằm mục đích khuyến khích ngành công nghiệp sạch hơn ở các nước ngoài EU.

Các quy định, tiêu chuẩn mới trong các lĩnh vực kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn do các nước phát triển đặt ra tạo sức ép thực thi và tác động đến khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển, nhưng đồng thời cũng mang lại cơ hội lớn.

Một số khuyến nghị cho Việt Nam

Các rủi ro và bất ổn tài chính thế giới đang gia tăng sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế – tài chính Việt Nam, đặt ra vấn đề cần phải chủ động nắm bắt tình hình và có những sự chuẩn bị, ứng phó kịp thời trước những xu hướng, diễn biến bất lợi trên thị trường tài chính quốc tế.

Thứ nhất, chủ động theo dõi sát sao các diễn biến trên thị trường tài chính quốc tế, đặc biệt là tình hình căng thẳng địa chính trị, quan hệ giữa các nước lớn, chính sách tiền tệ của các nước lớn và làn sóng bất ổn của khu vực ngân hàng để chuẩn bị sẵn các kịch bản ứng phó trong trường hợp bất lợi.

Thứ hai, tăng cường củng cố hệ thống tài chính trong nước với các giải pháp cụ thể như: phát triển hạ tầng tài chính hiện đại và thuận lợi cho nhà đầu tư, theo đó đầu tư vào hệ thống công nghệ tài chính (Fintech), cải thiện hạ tầng thanh toán điện tử và xây dựng các khu tài chính có cơ sở hạ tầng hiện đại; nâng cấp môi trường pháp lý và cải cách thể chế thông qua xây dựng khung pháp lý minh bạch, linh hoạt và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế đồng thời cải thiện quy trình hành chính và thủ tục đầu tư để giảm thiểu chi phí và thời gian cho doanh nghiệp; thu hút và phát triển nguồn nhân lực tài chính chất lượng cao; mở rộng thị trường vốn, phát triển các công cụ tài chính mới như trái phiếu, quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh và nâng cao tính thanh khoản của thị trường chứng khoán.

Thứ ba, tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quản trị rủi ro trong hệ thống tài chính – ngân hàng của Việt Nam như nâng cao tỷ lệ an toàn vốn, tăng cường quản lý rủi ro thanh khoản, cải thiện tính minh bạch và công khai thông tin…

Thứ tư, thúc đẩy số hóa trong tài chính – ngân hàng đồng thời tăng cường an ninh mạng. Đây là chìa khóa để Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào hệ thống tài chính quốc tế, giúp ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh và bảo đảm an ninh, ổn định.

Thứ năm, chú trọng kiểm soát lạm phát; nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp chính sách tiền tệ và tài khóa; tăng cường các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế carbon thấp và tài chính xanh.

(Phương Hoa)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here