- Khuôn khổ pháp lý ổn định, quy hoạch, chiến lược, định hướng phát triển rõ ràng là điều kiện tiên quyết để phát triển thành công ĐGNK
Nhiều nền kinh tế lớn đều ban hành chiến lược quốc gia và lộ trình triển khai cụ thể cho từng giai đoạn với các mục tiêu rõ ràng về sản lượng, xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển trong chuỗi giá trị và bảo đảm cơ chế giá ổn định. Trung Quốc ban hành Quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo 5 năm (2021 – 2025) với các mục tiêu cụ thể về ĐGNK[1]; các địa phương duyên hải công bố quy hoạch phát triển điện gió trên biển[2] tạo định hướng rõ ràng trong thu hút đầu tư. EU đưa ra Chiến lược về ĐGNK năm 2020 với mục tiêu củng cố vị trí tiên phong, xây dựng quy hoạch không gian biển, quy hoạch phát triển ĐGNK; công bố chương trình RePowerEU năm 2022 đặt mục tiêu sản lượng ĐGNK đạt 90GW vào năm 2030 và 300GW vào năm 2050[3]. Tây Ban Nha phê duyệt “Lộ trình phát triển năng lượng gió ngoài khơi và năng lượng biển” (12/2021), trong đó phân vùng phát triển các trang trại ĐGNK, quy định thủ tục cấp quyền sử dụng, quyền tiếp cận và kết nối với hệ thống điện với mục tiêu phát triển 3 GW ĐGNK vào năm 2030. Hàn Quốc công bố “Thoả thuận Xanh” (7/2020) với tổng đầu tư 7,7 tỷ USD đến năm 2025 để phát triển điện gió, mặt trời và hydro, trong đó đặt mục tiêu 12GW công suất ĐGNK vào năm 2030.
Việc triển khai chiến lược phát triển ĐGNK được đẩy nhanh bằng nhiều cơ chế đột phá. Rumani thông qua Luật ĐGNK (5/2024), trở thành quốc gia đầu tiên ở Biển Đen có khuôn khổ pháp lý chuyên biệt cho năng lượng ĐGNK; đẩy nhanh xây dựng lộ trình triển khai các dự án ĐGNK[4]. Đức xây dựng Luật phát triển năng lượng tái tạo và Luật xây dựng dự án ĐGNK (WindSeeG). Anh thành lập lực lượng đặc nhiệm tăng tốc ĐGNK trong khuôn khổ Chiến lược An ninh năng lượng (BESS) tập trung vào cải cách quy hoạch, tăng cường hiệu quả phê duyệt đầu tư, cắt giảm thời gian thông qua các dự án mới từ 04 năm xuống còn 01 năm. Nhật Bản công bố thành lập các “khu vực ưu đãi” nhằm tạo cơ chế đột phá phát triển các cơ sở sản xuất điện năng lượng tái tạo trên biển, đặc biệt là các dự án ĐGNK trong vùng lãnh hải.
Căn cứ điều kiện cụ thể, các nước có chính sách đặc thù với hai cách tiếp cận khác nhau trong quy trình triển khai các dự án ĐGNK. Theo mô hình một giai đoạn (Nhật Bản): trên cơ sở quy hoạch phát triển ĐGNK, Chính phủ tổ chức đấu thầu một lần, giao khu vực biển để doanh nghiệp khảo sát dự án, đồng thời ký hợp đồng mua bán điện; các nhà đầu tư xây dựng, phát triển và vận hành dự án. Theo mô hình hai giai đoạn (Anh): việc giao khu vực biển và tiếp cận thị trường điện được quyết định qua các cuộc đấu thầu tách biệt.
2. Các cơ chế hỗ trợ tài chính có vai trò quan trọng thúc đẩy ngành ĐGNK phát triển, nhất là trong giai đoạn ban đầu
Với đặc thù chi phí đầu tư lớn, vai trò hỗ trợ của nhà nước được triển khai thông qua nhiều hình thức như: cấp vốn trực tiếp cho các dự án ĐGNK bằng ngân sách quốc gia hoặc các quỹ phát triển năng lượng tái tạo; phát hành các chứng chỉ xanh để huy động vốn; triển khai một số công cụ tài chính như ưu đãi thuế, trợ cấp giá bán buôn… Trung Quốc hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước triển khai các dự án ĐGNK quan trọng để phát triển thành những doanh nghiệp lớn toàn cầu [5]; triển khai hỗ trợ giá ĐGNK thông qua trợ cấp quốc gia[6] và địa phương[7], đồng thời tham gia điều tiết giá ĐGNK nhằm ổn định thị trường[8]. Đài Loan dành ngân sách 3 tỷ USD để hỗ trợ ngành sản xuất các thiết bị ĐGNK (móng dưới nước, các dự án bến bãi lớn để phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp ĐGNK,…), 14,5 tỷ USD cho hoạt động nghiên cứu và phát triển; thúc đẩy “Cơ chế bảo đảm tài chính quốc gia” để cung cấp tín dụng, khuyến khích các tổ chức tài chính mở rộng tín dụng và đầu tư vào ngành năng lượng xanh. EU dành 40 tỷ euro từ Quỹ Đổi mới sáng tạo đầu tư cho các dự án điện gió giai đoạn 2020 – 2030. Ngân hàng đầu tư châu Âu (EIB) dành gói vay ưu đãi 150 tỷ euro trong 5 năm. Anh đầu tư 250 triệu bảng Anh để xây dựng chuỗi cung ứng, thiết lập Đối tác tăng trưởng gió ngoài khơi (OWGP) để tăng cao năng suất và tăng khả năng cạnh tranh; đưa ra trợ cấp vốn lên tới 100% với nhà máy và thiết bị cho các dự án ĐGNK[9]; thành lập Trung tâm đổi mới ĐGNK. Brazil hỗ trợ phát triển ĐGNK thông qua các chính sách tài chính và ưu đãi đầu tư bao gồm giảm thuế cho các dự án năng lượng tái tạo (50% – 100%) và cung cấp các khoản vay ưu đãi.
Điểm tương đồng ở những quốc gia mở rộng quy mô thị trường ĐGNK thành công là triển khai dự án thí điểm kết hợp cơ chế giá thu mua (FiT) trong giai đoạn đầu và chuyển sang mô hình đấu thầu xây dựng sử dụng Hợp đồng chênh lệch[10] khi ngành ĐGNK đã trưởng thành. Các nước EU khuyến khích đầu tư quốc tế vào các dự án năng lượng gió bằng cách bảo đảm mức giá tối thiểu dài hạn thông qua các Hợp đồng chênh lệch có thời hạn (15 năm với Anh và 20 năm với Đức và Pháp). Thị trường ĐGNK của Đan Mạch ban đầu được hỗ trợ bởi cơ chế giá FiT với dự án thí điểm thành công, sau đó chuyển sang cơ chế đấu giá cạnh tranh sau năm 1993. Đức áp dụng mô hình Thí điểm – Giá FiT – Đấu thầu. Trong giai đoạn đầu, Đức áp dụng cơ chế hỗ trợ giá cho ĐGNK ở mức 15 cent/kWh vào năm 2009, sau đó tăng dần công suất ĐGNK lên 8,9 GW tính đến năm 2024 với mức giá đấu thầu mới nhất giảm xuống mức 0 USD/kWh, nghĩa là bán theo giá thị trường mà không hỗ trợ giá. Anh cũng đi theo lộ trình tương tự; phát triển 3,2 GW ĐGNK theo cơ chế FiT, trước khi chuyển sang đấu giá cạnh tranh sử dụng Hợp đồng chênh lệch từ năm 2015. Hiện tại, Anh có 14,7 GW ĐGNK đang vận hành và là một trong những nguồn năng lượng tái tạo có chi phí cạnh tranh. Hàn Quốc áp dụng cơ chế giá (FiT) với mức ưu đãi 0,10 USD/kWh cho các dự án ĐGNK, cung cấp các ưu đãi về thuế, vốn và hỗ trợ nghiên cứu phát triển công nghệ. Đài Loan sử dụng “Hệ thống biểu giá đầu vào cho năng lượng tái tạo”, quy định giá FiT ổn định trong 20 năm (giá mua bán buôn ĐGNK hiện nay là 166 USD/MWh, cao gấp đôi so với giá điện dân dụng trung bình).
3. Tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu trong ngành điện gió ngoài khơi
Sự phát triển của ngành ĐGNK đòi hỏi đầu tư lớn về hạ tầng và công nghệ. Do đó, các nước đều có nhu cầu đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực tài chính, công nghệ và kỹ thuật từ các đối tác.
Một số khuôn khổ hợp tác toàn cầu được thành lập nhằm thúc đẩy lĩnh vực ĐGNK. Hội đồng năng lượng gió toàn cầu (GWEC) là tổ chức quốc tế đại diện cho ngành năng lượng gió được thành lập năm 2005, gồm hơn 1500 doanh nghiệp và tổ chức thành viên ở hơn 80 quốc gia trên thế giới. Liên minh điện gió ngoài khơi toàn cầu (GOWA) được thành lập nhân Hội nghị COP 27 (2022) bởi Chính phủ Đan Mạch, Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) và GWEC là một sáng kiến hợp tác nhiều bên. GOWA thúc đẩy các nỗ lực ngoại giao nhằm tạo ra các khung chính sách và chuỗi giá trị điện gió ngoài khơi hiệu quả.
Một số nền kinh tế lớn, có tiềm năng phát triển ĐGNK như Trung Quốc, EU, UAE… tăng cường thúc đẩy các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương.
EU quyết tâm củng cố vị thế tiên phong trong phát triển năng lượng gió thông qua tăng cường hợp tác nội khối nhằm nâng cao năng lực tổng thể trong phát triển ngành ĐGNK. Uỷ ban châu Âu ban hành Hướng dẫn về khuôn khổ đầu tư đối với các dự án ĐGNK giữa các nước thành viên, hỗ trợ các nước đàm phán thoả thuận chia sẻ chi phí nhằm đạt được các mục tiêu của EU về ĐGNK[11]. UAE và Trung Quốc hợp tác phát triển các dự án điện gió quy mô lớn tại UAE do tập đoàn Masdar làm chủ đầu tư, hợp tác với 02 tập đoàn GoldWind International (hỗ trợ công nghệ tua-bin) và Power China (thực hiện việc xây dựng). Tây Ban Nha và UAE công bố thỏa thuận hợp tác chiến lược trị giá 15 tỷ euro để đánh giá sự phát triển chung của các dự án ĐGNK và hydrogen xanh tại các thị trường trọng điểm bao gồm Đức, Anh và Mỹ. Nauy và Đức kết nối thị trường điện hai nước bằng đường cáp Nordlink, theo đó Đức có thể xuất khẩu các nguồn điện gió dư thừa công suất. Các nước đang phát triển tích cực tham gia vào các sáng kiến quốc tế để phát triển công nghệ và thiết lập chuỗi cung ứng cho ngành ĐGNK. Bắc Âu phát triển hạ tầng lưới điện chung để kết nối các dự án ĐGNK để tối ưu hóa sản xuất. Brazil tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp quốc tế lớn để tận dụng kinh nghiệm, nguồn lực và công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển.
Các nước chú trọng đơn giản hóa thủ tục đầu tư, bảo đảm khuôn khổ pháp lý ổn định và thiết lập các cơ chế một cửa nhằm thu hút đầu tư trong lĩnh vực ĐGNK. Đài Loan thiết lập cơ chế một cửa dịch vụ duy nhất cho hoạt động sản xuất điện gió, mở cửa giao dịch tự do điện tái tạo và hoàn thiện “Nền tảng giao dịch điện xanh” cho phép các doanh nghiệp mua bán điện trực tiếp; thu hút đầu tư nước ngoài trên cơ sở gắn kết chặt chẽ với mục tiêu nội địa hóa ngành ĐGNK, chú trọng đào tạo nhân lực. Đan Mạch hỗ trợ quy trình đánh giá, phê duyệt dự án, áp dụng cơ chế một cửa qua việc chỉ định một cơ quan đầu mối có thẩm quyền lập kế hoạch và cấp phép các dự án ĐGNK nhằm giảm quy trình, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển dự án. EU thông qua Kế hoạch hành động về điện gió nhằm đẩy nhanh cấp phép, cải tiến quy trình đấu thầu, tiếp cận tài chính, tạo môi trường quốc tế công bằng và cạnh tranh để thu hút đầu tư vào các dự án ĐGNK.
4. Hệ thống cơ sở hạ tầng bổ trợ được ưu tiên xây dựng đồng bộ trong phát triển ngành ĐGNK
Hàn Quốc chú trọng đầu tư nâng cấp và mở rộng hạ tầng lưới điện nhằm hỗ trợ kết nối các dự án ĐGNK vào hệ thống điện quốc gia. Đài Loan xây dựng “Quy hoạch cơ sở hạ tầng hướng tới tương lai” bố trí ngân sách 300 triệu USD đầu tư xây dựng hạ tầng cần thiết cho ĐGNK; tích cực xây dựng các trạm lắp ráp tua-bin gió, trạm vận hành và bảo trì, củng cố lưới điện và cơ sở hạ tầng liên quan để tạo nền tảng cơ sở vật chất đồng bộ cho phát triển ĐGNK. Đan Mạch tiến hành xây dựng “đảo năng lượng” đầu tiên trên thế giới theo hình thức công tư, thu thập điện từ các trang trại ĐGNK và phân phối vào lưới điện. Đức phát triển cơ sở hạ tầng truyền tải ra nước ngoài theo cụm với các nước láng giềng. Một số nước EU (Đức, Đan Mạch, Hà Lan) hợp tác phát triển các “trung tâm năng lượng” ngoài khơi để kết nối các trang trại ĐGNK với các dự án hydrogen xanh trên bờ, mở rộng
kết nối với lưới điện của các quốc gia khác nhằm thúc đẩy giao dịch năng lượng sạch qua biên giới.
5. Tăng cường nội địa hoá chuỗi cung ứng, nâng cao năng lực sản xuất trong nước
Trung Quốc nghiên cứu sản xuất tua-bin gió ngoài khơi lớn nhất thế giới “CSSC Haizhuang” có công suất 18 MW và khả năng hoạt động ở các khu vực bão lớn, gió mạnh trên đại dương; đưa vào vận hành dự án tua-bin gió ngoài khơi nửa chìm nửa nổi đầu tiên trên thế giới hoạt động ở vùng biển có độ sâu hơn 100m và cách bờ hơn 100km. Chính phủ ban hành “Biện pháp tạm thời quản lý phát triển và xây dựng điện gió ngoài khơi” (2010) quy định doanh nghiệp đầu tư phải là doanh nghiệp Trung Quốc hoặc liên doanh giữa Trung Quốc và nước ngoài trong đó Trung Quốc chiếm trên 50% cổ phần vốn. Nhằm khuyến khích ngành công nghiệp nội địa, Trung Quốc đặt ra yêu cầu 70% thiết bị dùng để vận hành điện gió phải được sản xuất tại Trung Quốc, khuyến khích các công ty nước ngoài thành lập cơ sở sản xuất tại Trung Quốc[12]. Đến nay, doanh nghiệp Trung Quốc chiếm lĩnh toàn bộ thị trường sản xuất tua-bin gió tại Trung Quốc, tỷ lệ nội địa hoá đạt trên 90% và số lượng tua-bin gió của Trung Quốc chiếm tỷ lệ 60% toàn cầu. Đài Loan đặt ra yêu cầu chuyển giao công nghệ và nâng tỉ lệ nội địa hoá trong các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư ĐGNK quốc tế cần tuân thủ tiến độ chuyển giao công nghệ theo ba giai đoạn để hỗ trợ ngành ĐGNK của Đài Loan tăng cường tỷ lệ nội địa hóa[13].
EU ban hành “Hiến chương gió châu Âu” nhằm bảo vệ ngành công nghiệp năng lượng gió ở châu Âu khỏi các hoạt động thương mại không công bằng, thúc đẩy sản xuất tua-bin gió chất lượng cao. Hàn Quốc áp dụng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh thị trường trong nước thông qua áp dụng các tiêu chí, quy trình đấu thấu tập trung vào các yếu tố về an ninh kinh tế, đóng góp vào chuỗi giá trị trong nước (chuyển giao công nghệ, việc làm chất lượng cao, tác động lan toả,…)[14]. Anh đặt mục tiêu đạt 60% hàm lượng nội địa trong các dự án ĐGNK vào năm 2030 thông qua khuyến khích các công ty trong nước đẩy mạnh đầu tư ĐGNK nhờ các chương trình hỗ trợ tài chính và tín dụng ưu đãi, tăng cường xây dựng các nhà máy sản xuất thiết bị và linh kiện điện gió ngay tại Anh để xây dựng năng lực sản xuất. Nhật Bản chú trọng phát triển điện gió ở các vùng biển xa bờ, nhất là trong vùng EEZ nhằm đảm bảo và khẳng định chủ quyền tại các vùng biển tranh chấp; dự kiến ban hành Luật về vấn đề điện gió tại EEZ./.
(Tổng hợp Kinh tế)
[1] Các mục tiêu cụ thể là: (i) Xây dựng 05 cụm cơ sở ĐGNK gồm bán đảo Sơn Đông, đồng bằng sông Trường Giang, Nam Phúc Kiến, Đông Quảng Đông và Nam Quảng Tây; (ii) Thúc đẩy xây dựng cơ sở ĐGNK trọng điểm với công suất trên 10 triệu KW; (iii) Sử dụng các dự án ĐGNK nhằm bình ổn giá điện ở vùng biển xa và hình thành các dự án kiểu mẫu về năng lượng ngoài khơi ở các đảo.
[2] Đáng chú ý như: (i) Tỉnh Phúc Kiến tăng công suất 4,1 triệu KW và phát triển mới 10,3 triệu KW; (ii) Tỉnh Quảng Đông đặt mục tiêu công suất lắp đặt đạt 18 triệu KW; (iii) Tỉnh Hải Nam đề xuất mục tiêu công suất lắp đặt lên 3 triệu KW.
[3] Hà Lan đặt lộ trình lắp đặt 21GW ĐGNK vào năm 2031.
[4] Ngày 31/3/2025, Chỉnh phủ Rumani phê duyệt các ranh giới ĐGNK. Ngày 30/6/2025, hoàn tất việc nhượng quyền sản xuất ĐGNK cho các đơn vị khai thác.
[5] Tình đến cuối năm 2022, 05 tập đoàn nhà nước lớn hàng đầu trong lĩnh vực này là Hoa Năng, Tam Hiệp, Tập đoàn đầu tư năng lượng quốc gia, Tập đoàn đầu tư điện quốc gia, Tập đoàn năng lượng nguyên tử tổng hợp Trung Quốc.
[6] Chính phủ Trung Quốc trợ cấp giá ĐGNK với mức 0,8 NDT/KWh vào năm 2019 và 0,75 NDT/KWh vào năm 2020, 2021.
[7] Các tỉnh thành trọng điểm trong chiến lược ĐGNK của Trung Quốc chủ động ban hành các chính sách trợ cấp cho các dự án. Thượng Hải hỗ trợ tài chính 500 NDT/KW trong giai đoạn 2022-2026, mỗi dự án không quá 50 triệu NDT. Quảng Đông và Sơn Đông hỗ trợ 500 NDT/KW và 300 NDT/KW trong năm 2024.
[8] Xác định giá cố định cho khu vực gần bờ và các dự án ngoài khơi lần lượt là 0,75 NDT/KWh và 0,85 NDT/KWh.
[9] Các công ty có thể yêu cầu trợ cấp 100% vốn đầu tư vào nhà máy và máy móc, trợ cấp 50% trong năm đầu tiên cho các tài sản có lãi suất đặc biệt (bao gồm cả tài sản dài hạn) cho đến tháng 3/2026.
[10] Nhà nước bảo đảm giá điện bán buôn không biến động bằng các hợp đồng dài hạn mua khối lượng lớn năng lượng sạch với chi phí thấp nhất cho người tiêu dùng. Theo hợp đồng này, chính phủ sẽ cấp gói hỗ trợ hàng tháng, khoản tiền này thay đổi tuỳ theo chênh lệch về mức giá điện của thị trường và mức giá tham khảo được xác định trên hợp đồng cung cấp điện.
[11] Năm 2022, Hà Lan cùng Bỉ, Đan Mạch và Đức ký Tuyên bố Esbjerg cam kết đạt mục tiêu kết hợp lắp đặt công suất ĐGNK 65GW (2030) và 150 GW (2050). Các quốc gia thành viên Hợp tác năng lượng Biển Bắc (Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Ireland, Pháp, Nauy, Luxembourg) thoả thuận đạt mục tiêu công suất tối thiểu 76,3GW (2030) và 260 GW (2050).
[12] Trong giai đoạn 2001 – 2007, hầu hết các nhà sản xuất tua-bin gió lớn trên thế giới như Gamesa, General Electric, Norde Suzlon, Vestas,.. xây dựng cơ sở sản xuất tại Trung Quốc hoặc liên doanh với các công ty Trung Quốc.
[13] Trong giai đoạn 01 (2021 – 2022), tua-bin gió phải sử dụng các giá tháp được chế tạo tại địa phương. Giai đoạn 02 (2023 – 2024), yêu cầu này được áp dụng quy chuẩn đối với các cụm vỏ bọc, máy biến áp, tổng đài, hệ thống cấp điện, vỏ côn, hệ thống dây cáp, đúc vỏ bánh quạt, đai ốc vít. Giai đoạn 03 (2024 – 2025), hầu hết các công nghệ và bộ phận chính của tua-bin gió sẽ được áp dụng yêu cầu tương tự.
[14] Trong giai đoạn 01, các yếu tố như an ninh kinh tế, đóng góp cho chuỗi giá trị trong nước, khả năng vận hành – bảo dưỡng được tính 40% – 50% tổng điểm chấm thầu, trong đó tiêu chí đánh giá hiệu quả (tác động lan toả) kinh tế – công nghiệp được nâng lên 26 điểm từ mức 16 điểm trước đây.