Việt Nam tăng mạnh nhập khẩu quặng và khoáng sản, top 2 nhà cung cấp lớn nhất

0
11
Quặng và khoáng sản nhập về Việt Nam trong tháng 10/2024 tăng trên 46% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 9/2024. (Nguồn: theptam.com)

Australia là thị trường nhập khẩu quặng và khoáng sản lớn nhất của Việt Nam với 9,75 triệu tấn, tăng 29,4% về lượng và tăng 26,9% về kim ngạch.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, quặng và khoáng sản nhập về Việt Nam trong tháng 10/2024 tăng trên 46% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 9/2024 và cũng tăng mạnh 62,4% về lượng và tăng 53,3% về kim ngạch so với tháng cùng kỳ năm 2023, đạt gần 2,39 triệu tấn, trị giá 257,49 triệu USD.

Tính chung cả 10 tháng năm 2024, nhập khẩu tăng mạnh 29,9% về lượng và tăng 27,5% về kim ngạch so với 10 tháng năm 2023, đạt 21,84 triệu tấn, trị giá trên 2,38 tỷ USD.

Giá quặng và khoáng sản nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 10/2024 đạt trung bình 107,8 USD/tấn, giảm 0,14% so với tháng liền kề trước đó và giảm 5,6% so với tháng 10/2023. Tính trung bình cả 10 tháng đầu năm, giá quặng và khoáng sản nhập khẩu đạt 109 USD/tấn, giảm 1,8% so với 10 tháng năm 2023.

Về thị trường, Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này từ 21 thị trường chính trong 10 tháng năm 2024. Cụ thể, Australia là thị trường nhập khẩu quặng và khoáng sản lớn nhất của Việt Nam với 9,75 triệu tấn, tăng 29,4% về lượng và tăng 26,9% về kim ngạch; giá nhập khẩu đạt 110,8 USD/tấn, giảm 1,95%. Brazil là thị trường lớn thứ hai với 5,96 triệu tấn, trị giá 681,07 triệu USD, tăng 54,2% về lượng và tăng 42,3% về kim ngạch so với cùng kỳ; giá nhập khẩu đạt 114,3 USD/tấn, giảm 7,8%.

Đáng chú ý, lượng nhập khẩu quặng và khoáng sản từ Thổ Nhĩ Kỳ mạnh đạt 238.799 tấn, trị giá đạt 35,8 triệu USD. Việt Nam còn nhập khẩu 192.841 tấn từ Ấn Độ, tăng 16,31% so với cùng kỳ năm trước.

Trung Quốc là thị trường thứ 3, duy nhất trong 8 thị trường lớn nhất có đà giảm về lượng với 32,91% so với cùng kỳ năm trước, còn 465.594 tấn.

Trong 8 thị trường nhập khẩu quặng và khoáng sản lớn nhất của Việt Nam còn có Thái Lan, Lào và Campuchia. Theo đó, lượng nhập khẩu từ Lào đạt tới 1,6 triệu tấn, tăng 19,01% so với cùng kỳ năm trước; Thái Lan với 907.245 tấn, tăng 15,21% so với cùng kỳ năm trước và Campuchia với 554.640 tấn, tăng tới 60,38% so với cùng kỳ năm trước.

Trong khối ASEAN, Việt Nam còn nhập khẩu 74.109 tấn từ Malaysia, tăng 137,48% so với cùng kỳ năm trước; Myanmar với 3.453 tấn, giảm 45,38%; Singapore với 1.131 tấn, giảm 90,543% so với cùng kỳ năm trước.

Về kim ngạch, quặng và khoáng sản từ Australia có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất với 1.080 triệu USD, tăng 26,86% so với cùng kỳ năm trước; Brazil với 681 triệu USD, tăng 42,16% so với cùng kỳ năm trước.

Việt Nam chi 56,47 triệu USD để nhập khẩu mặt hàng này từ Lào, tăng 20,21% so với cùng kỳ năm trước; từ Thái Lan với 69,50 triệu USD, tăng 108% so với cùng kỳ năm trước; từ Campuchia với 44,8 triệu USD, tăng tới 67,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong khối ASEAN, Việt Nam đã chi 15,1 triệu USD để nhập khẩu quặng và khoáng sản từ Malaysia, tăng 67,49 so với cùng kỳ năm trước; chi 7,7 và 2,89 triệu USD để nhập từ Myanmar và Singapore, lần lượt giảm 44% và 53,48% so với cùng kỳ năm trước.

Việt Nam là quốc gia giàu tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên như rừng cây, các động vật, thực vật quý hiếm, các mỏ khoáng sản, các nguồn nước, dầu, khí. Tuy nhiên, do nhu cầu sản xuất và tiêu thụ thép trong nước tăng cao nên nhập khẩu quặng và khoáng sản của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ.

Hiện nay, nước ta có đến hơn 5.000 điểm mỏ, quặng. Việt Nam xếp thứ 15 trên thế giới về diện tích khoáng sản, xếp thứ 65 về tuổi địa chất, có 60/200 loại khoáng sản phổ biến trên thế giới. Đặc biệt, một số loại khoáng sản quy mô trữ lượng đáng kể, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội.

Ví dụ như bô xít (5,8 triệu tấn) đứng thứ 2 thế giới, fluorit (5 nghìn tấn) đứng thứ 5 thế giới, apatit (0,778 triệu tấn), titan (15,71 triệu tấn), than (3.520 triệu tấn), đất hiếm (22 triệu tấn) đứng thứ 2 thế giới và đá granit (15 tỷ m3), vonfram (100 nghìn tấn) đứng thứ 3 thế giới…

Việt Nam đặt mục tiêu hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh tương đương với các nước tiên tiến khu vực châu Á hiện nay.

An Hải

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here