Để không bị loại khỏi ”cuộc chơi”, doanh nghiệp cần thay đổi tư duy, quan tâm tới tính xanh của chuỗi cung ứng trong thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường khó tính.

Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) mới đây đã tổ chức Chương trình đào tạo, nâng cao năng lực phát triển xuất khẩu xanh.
Chương trình nhằm hỗ trợ các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam cập nhật thông tin về phát triển xuất khẩu xanh, nắm bắt và hiểu biết rõ về các đạo luật để phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp và hiệu quả trong bối cảnh mới.
Đại diện Cục Xúc tiến Thương mại cho hay, châu Âu là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng liên quan đến nạn phá rừng gồm 50% cà phê và 60% ca cao của thế giới. Do đó, quy định không phá rừng nhằm giảm tác động của các sản phẩm do công dân Liên minh châu Âu (EU) mua đối với các khu rừng và diện tích rừng trên thế giới.
Quy định giảm mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) được đề xuất hướng vào những mặt hàng có tác động lớn đến nạn phá rừng và một số sản phẩm có nguồn gốc từ chúng như cà phê, ca cao, đậu nành, dầu cọ, gia súc, gỗ và sản phẩm gỗ…
Đặc biệt, kể từ 29/6/2023, một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu vào EU đứng trước một “hàng rào” mới – Quy định chống phá rừng (The European Union Deforestation Regulation – EUDR) của liên minh 27 quốc gia thành viên. Các doanh nghiệp lớn sẽ có 18 tháng, doanh nghiệp nhỏ và vừa có 24 tháng để chuẩn bị và đáp ứng các yêu cầu của EUDR tính từ thời điểm quy định này có hiệu lực.
EUDR cấm nhập khẩu 7 nhóm mặt hàng vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này gây mất rừng. Tại Việt Nam, ba nhóm ngành bị tác động chính bao gồm gỗ, cao su và cà phê. Do đó, chương trình nhằm đào tạo, nâng cao năng lực giúp doanh nghiệp tự tin xuất khẩu xanh.
Theo ông Hoàng Thành, đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam, Quy định của EU về chuỗi cung ứng không gây phá rừng và suy thoái rừng (gọi tắt là EUDR) nhằm giảm thiểu nguy cơ các sản phẩm, chuỗi cung ứng liên quan đến phá rừng, suy thoái rừng được đưa vào thị trường EU hoặc xuất khẩu từ thị trường EU.
Từ 31/12/2024, quy định này bắt đầu áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức; tháng 6/2025 đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ những sản phẩm đáp ứng cả hai điều kiện là không gây phá rừng và hợp pháp mới được phép vào thị trường EU hoặc xuất khẩu từ EU. Đặc biệt, truy xuất nguồn gốc hàng hóa nghiêm ngặt đến tận thửa đất, lô rừng nơi hàng hóa đó được sản xuất.
Còn theo ông Huỳnh Thành Trung, Chuyên gia đào tạo về Cơ chế Điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), CBAM là một quy định mới quan trọng của EU nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các ngành công nghiệp. EU thí điểm áp dụng CBAM trong giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 1/10/2023 và thực hiện đầy đủ từ năm 2026.
CBAM áp mức giá carbon lên hàng hóa nhập khẩu có lượng phát thải cao (bao gồm xi măng, nhôm, sắt thép, phân bón, hydro và điện). Quy định này hướng đến mục tiêu ngăn ngừa “rò rỉ carbon” và duy trì tính cạnh tranh của các ngành công nghiệp EU đang chịu phí carbon theo Hệ thống Mua bán phát thải (ETS).
Cùng đó, các chuyên gia tham gia chương trình cũng thông tin các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa thuộc diện CBAM cần đánh giá cẩn thận các tác động tài chính tiềm tàng của quy định này. Việc chủ động thực hiện các biện pháp tuân thủ là vô cùng cần thiết, bởi khi nắm bắt và hiểu biết rõ các quy định mới của EU như CBAM, EUDR, doanh nghiệp có kế hoạch, biện pháp và lộ trình điều chỉnh các hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp và hiệu quả trong bối cảnh mới.
Thách thức với doanh nghiệp
Chia sẻ tại chương trình, ông Đinh Sỹ Minh Lăng, Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ (Bộ Công Thương) đã chỉ ra 3 thách thức do tác động của EUDR đến doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, chi phí xuất khẩu sang EU tăng, có khả năng gây rủi ro cho các công ty vừa và nhỏ: Thủ tục truy xuất nguồn gốc và chứng nhận của EUDR vì họ sẽ yêu cầu các công nghệ, quy trình và chi phí hành chính cho việc tuân thủ.
Thứ hai, hàng hoá của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh xuất khẩu và mất thị phần tại EU bởi đối thủ cạnh tranh đã sẵn sàng cho việc tuân thủ đầy đủ EUDR.
Thứ ba, là hạn chế năng lực truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng. Trong đó, việc khó xác định vùng trồng hợp pháp ảnh hưởng đến kết quả đánh giá và phân loại rủi ro vùng trồng của EU theo quốc gia. Vùng sản xuất, mặc dù diện tích canh tác đối với cà phê, gỗ, cao su không lớn và canh tác ổn định.
Bên cạnh đó, việc kiểm soát nguyên liệu đầu vào trong chuỗi cung ứng cà phê, gỗ, cao su do đội ngũ thu mua, thương lái phức tạp tham gia vào chuỗi cung ứng, đặc biệt là đối với các mặt hàng gỗ trong thời gian vừa qua là minh chứng điển hình thể hiện tính phức tạp, không tuân thủ các yêu cầu pháp lý của các khâu trong chuỗi (vấn đề hoàn thuế VAT).
Ông Nguyễn Trung Kiên, Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ rõ, EUDR yêu cầu 100% sản phẩm phải có định vị GPS/polygon đến từng mảnh vườn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỉ lệ này còn thấp, trong khi chi phí định vị lại cao. Tiếp đến, EUDR yêu cầu truy xuất vật lý đến vườn trồng nhưng quy mô này ở nước ta lại nhỏ lẻ, manh mún; chuỗi giá trị phức tạp với nhiều lớp trung gian; chi phí phát sinh rất lớn.
Ông Kiên nhấn mạnh, việc hợp tác công tư cung cấp hệ thống thông tin vùng sản xuất dựa trên chuyển đổi dữ liệu địa chính và khảo sát xác nhận thông tin. Chi phí hợp tác công tư sẽ thấp hơn, chỉ khoảng 3,7 USD/ha, trong khi nếu triển khai đơn lẻ, doanh nghiệp sẽ phải trả khoảng 10 USD/ha.
Bên cạnh đó, triển khai đồng bộ, tạo ra hệ thống phục vụ đa cây trồng, đa mục đích, đa thị trường và kết nối với giải pháp truy xuất nguồn gốc theo vùng. Sau cùng, hợp tác công tư còn tạo điều kiện cho các nông hộ tiếp cận thị trường.
Tận dụng cơ hội
Mặc dù tiềm ẩn nhiều thách thức, nhưng theo các chuyên gia, nếu tận dụng thành công cơ hội xuất khẩu xanh sang EU, lợi ích Việt Nam có thể nhận được cũng khá đáng kể, bởi thương mại đối với công nghệ xanh và các sản phẩm bền vững đã và đang trở thành xu hướng phổ biến ở nhiều quốc gia.
Theo ông Đinh Sỹ Minh Lăng, nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt nếu tận dụng và trở thành bạn hàng thân thiết của châu Âu. Ông nói: “Sản phẩm tuân thủ yêu cầu về EUDR và có chứng chỉ của Hội đồng quản lý rừng thế giới (FSC) sẽ làm tăng tính cạnh tranh và uy tín của Doanh nghiệp trên thị trường quốc tế”.
Việc hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm bền vững theo một chiến lược bài bản về vùng trồng và nguồn nguyên liệu hợp pháp (nguồn gốc và vị trí đất đai, truy xuất nguồn gốc, chia sẻ thông tin và phối hợp nhận hỗ trợ của cơ quan quản lý, hiệp hội nhằm đáp ứng tuân thủ…), nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nguồn cung và đảm bảo là sự lựa chọn ưu tiên đối với bạn hàng châu Âu.
Tiếp đến, doanh nghiệp đáp ứng EUDR, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xanh sẽ góp phần làm giảm phát thải khí nhà kính xây dựng môi trường sống xanh, giảm thiểu biến đổi khí hậu, gây tác động không tốt tới hệ sinh thái rừng, xây dựng nền tảng để sẵn sàng đáp ứng cho các quy định xanh khác của EU.
Đánh giá các tác động từ xu hướng chuyển đổi xanh trong thương mại quốc tế xuất khẩu trong bối cảnh thực thi EUDR, TS. Nguyễn Trung Kiên cho rằng, mục tiêu của quy định EUDR được đề xuất nhắm vào những mặt hàng có tác động lớn đến nạn phá rừng và một số sản phẩm có nguồn gốc từ chúng như cà phê, ca cao, đậu nành, dầu cọ, gia súc, gỗ và sản phẩm gỗ…
Do đó, Việt Nam cần có một khung kế hoạch hành động thích ứng với quy định chống phá rừng của EU để doanh nghiệp có thể “vượt rào”, tự tin xuất khẩu xanh sang thị trường EU như xây dựng khung hợp tác công tư trong EUDR; tuyên truyền, vận động; các giải pháp kĩ thuật; xây dựng và vận hành cơ chế đối thoại và đàm phán với EU về EUDR và các quy định khác; huy động nguồn lực.
Do vậy, để không bị loại khỏi ”cuộc chơi” bởi các tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội do các thị trường nhập khẩu đặt ra, các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp cần thay đổi tư duy, quan tâm tới tính xanh của chuỗi cung ứng trong thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường khó tính như EU.
An Hải