Quốc hội thông qua Luật Tài nguyên nước sửa đổi

0
63
Phiên họp chiều 27/11 của Quốc hội.

Chiều 27/11/2023, Quốc hội đã thông Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với 94,74% đại biểu tham gia biểu quyết tán thành.

Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quản lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các quy định mang tính kỹ thuật như: phòng, chống ô nhiễm nước biển tại Điều 33; khai thác tài nguyên nước cho sinh hoạt tại Điều 43; thu gom, xử lý nước đã qua sử dụng trong sản xuất công nghiệp, khai thác và chế biến khoáng sản tại Điều 47; phòng, chống xâm nhập mặn tại Điều 64; phòng, chống sụt, lún đất tại Điều 65; phòng, chống sạt, lở lòng, bờ, bãi sông, hồ tại Điều 66.

Dự thảo Luật đã được rà soát chỉnh lý các quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 35 về kịch bản nguồn nước để làm rõ hơn nội hàm, nội dung của kịch bản nguồn nước và làm căn cứ để các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện việc phối hợp điều hòa, phân phối tài nguyên nước và chủ động, khai thác hiệu quả nguồn nước được phân phối tại khoản 6 và khoản 7 Điều 35. Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết về nội dung của kịch bản nguồn nước tại khoản 8 Điều 35 để làm cơ sở cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện, chủ động được nguồn nước, sử dụng hiệu quả kinh tế nước và đảm bảo an ninh nguồn nước, ông Huy cho biết.

Về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, Điều 59 dự thảo Luật đã quy định sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước theo 3 cấp độ: (i) Khuyến khích các dự án khai thác, sử dụng nước có giải pháp sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước (khoản 1); (ii) Có kế hoạch, lộ trình quy định các loại dự án phải có phương án sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước đối với các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước và các hình thức ưu đãi tương ứng theo quy định của pháp luật (khoản 4 và khoản 5); (iii) Bắt buộc áp dụng sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước thải đối với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khai thác, sử dụng nước và xả nước thải tại các khu vực có nguồn nước không còn khả năng chịu tải (khoản 3 và khoản 6).

Đồng thời, khoản 4 Điều 59 dự thảo Luật đã quy định giao UBND cấp tỉnh có kế hoạch, lộ trình quy định các loại dự án phải có phương án tái sử dụng nước đối với các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước và các hình thức ưu đãi theo quy định của pháp luật. Theo đó, UBND cấp tỉnh sẽ xem xét, quyết định tỷ lệ nước phải tuần hoàn, tái sử dụng đối với từng dự án.

Về công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực cho tài nguyên nước, ông Huy phản ánh, có ý kiến đề nghị hoàn thiện nội dung quy định đối với cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp tại Điều 69 để đảm bảo tính công bằng, hợp lý, linh hoạt. Cân nhắc chỉ thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước mặt cho sản xuất nông nghiệp ở qui mô có tính chất kinh doanh; giao Chính phủ quy định cụ thể trường hợp miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp.

Theo ông Huy, Điều 69 quy định về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước quy định các trường hợp phải nộp tiền (khoản 1 Điều 69); trường hợp miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (khoản 3,4 Điều 69).

Theo đó, việc khai thác sử dụng nước cho mục đích nông nghiệp (quy mô lớn) thuộc diện cấp phép phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước để bảo đảm công bằng, hợp lý với các ngành kinh tế khai thác, sử dụng nước (điểm b khoản 1 Điều 69).

Tuy nhiên, thời điểm cấp quyền khai thác tài nguyên nước với đối tượng này sẽ thu cùng thời điểm thu tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ thủy lợi khi Nhà nước không thực hiện chính sách hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi theo quy định của pháp luật về thủy lợi và pháp luật về giá (khoản 4 Điều 86).

Còn đối với sản xuất nông nghiệp quy mô vừa và nhỏ, không thuộc đối tượng cấp phép thì dự thảo Luật quy định không phải nộp tiền cấp quyền khai thác sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp (khoản 2 Điều 69), bao gồm cả người nông dân trực tiếp khai thác nguồn nước mặt cho nông nghiệp; quy định giảm tiền cấp quyền đối với trường hợp “ Khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm mặn” (điểm d khoản 4 Điều 69) và để thể hiện rõ chính sách thu tiền cấp quyền đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp như Chính phủ đã trình Quốc hội.

Gồm 10 Chương, 86 Điều, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024.

(Nguyễn Lê/baodautu)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here