Quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng đang diễn ra với tốc độ chóng vánh. Bên cạnh cách tiếp cận nhằm xây dựng các chiến lược thương mại thông minh để giảm thiểu rủi ro từ chính trị quốc tế, quá trình một quốc gia và doanh nghiệp tham gia tái cấu trúc chuỗi cung ứng còn cần chú trọng đến hai yếu tố khác là yếu tố môi trường trong chuỗi mới và vai trò của con người trong quá trình xây dựng chuỗi.
Nâng cấp công nghệ bảo đảm yếu tố môi trường
5 năm kể từ Thỏa thuận Paris, các chính phủ, cơ quan quản lý, nhà đầu tư và khách hàng ngày càng yêu cầu doanh nghiệp thực hiện cam kết công khai về việc cắt giảm khí thải đang diễn ra, đóng góp tích cực trong các nỗ lực toàn cầu nhằm giải quyết biến đổi khí hậu.
Những cam kết này ban đầu tập trung vào phát thải Phạm vi 1 và Phạm vi 2 của Nghị định thư về Khí nhà kính (GHG), được sản xuất trực tiếp bởi các công ty hoặc gián tiếp thông qua việc mua năng lượng. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều tổ chức cũng cam kết đưa mục tiêu giảm phát thải Phạm vi 3 của họ được tạo ra trong chuỗi giá trị thượng nguồn và hạ nguồn. Ví dụ, trong số 239 công ty lớn trên thế giới đã đăng ký Sáng kiến Mục tiêu dựa trên khoa học vào năm 2020, 94% trong số đó bao gồm các cam kết giảm phát thải tại khâu tiêu dùng và nhà cung cấp. Đó là một bước tiến lớn, bởi lẽ đối với nhiều công ty, Phạm vi 3 chiếm 80% tác động tổng thể của công ty liên quan đến khí hậu.
Đạt được mức 0 ròng đối với phát thải Phạm vi 1 và Phạm vi 2 là một thách thức kinh tế và kỹ thuật lớn đối với nhiều công ty, đặc biệt là những công ty trong các lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng và tài nguyên, chẳng hạn như công nghiệp nặng. Phạm vi giải quyết 3 thể hiện một lớp phức tạp bổ sung, bao gồm các phương pháp tính toán và theo dõi carbon không rõ ràng; nhu cầu làm việc cộng tác với khách hàng, mạng lưới cung ứng và các nhóm ngành; và khó khăn trong việc giữ các bên liên quan tham gia vào một nỗ lực thay đổi phức tạp trong nhiều năm.
Trong các FTA thế hệ mới, chẳng hạn EVFTA hay CPTPP, yếu tố môi trường luôn được nêu bật như một trong những điều kiện tiên quyết để hàng hóa của một quốc gia thành viên được hưởng thuế suất ưu đãi. Điều này vừa là thuận lợi vừa là thách thức với các nước tham gia có trình độ phát triển ở mức còn cần cải thiện. Mặc dù, việc thực hiện các cam kết về môi trường sẽ khiến những doanh nghiệp của Việt Nam phải chi trả lớn hơn cho đầu vào và công nghệ, nhưng điều này cũng hàm ý rằng các công ty của Việt Nam sẽ nhanh chóng nâng cấp công nghệ và có thể chuyển lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị khi áp dụng các công nghệ và chuẩn mực mới.
Chuỗi cung ứng, chuyển đổi số và vai trò của con người
Tăng trưởng năng suất lao động toàn cầu sẽ ở mức 2% (2015 – 2025), trong đó 60% sẽ đến từ đóng góp của việc ứng dụng kĩ thuật số, AI hay dữ liệu số lớn. Một khảo sát nhanh với doanh nghiệp ở nhóm nước G7 cho thấy 70% các công ty cho rằng COVID-19 đã cho thấy tầm quan trọng của kinh tế kĩ thuật số. Với các doanh nghiệp truyền thống, chỉ 5% số doanh nghiệp có lợi nhuận trên 25% thì với các doanh nghiệp chuyển đổi sang kinh tế số, con số này đã tăng lên xấp xỉ 11%. Nghĩa là chuyển đổi sang kinh tế kĩ thuật số giúp tăng đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn.
Nhưng có một sự thật là chuỗi cung ứng hiện đại về cơ bản vẫn là nỗ lực của con người. Ví dụ, các thuật toán thông minh có thể tạo ra các dự báo nhu cầu nhanh hơn, chính xác hơn, nhưng việc thực thi các dự báo đó đòi hỏi nỗ lực tổng hợp và sự liên kết của hàng trăm cá nhân trong tổ chức, mỗi người đều có định kiến, khuyến khích, thành kiến, động cơ và hạn chế riêng của họ.
Một trong các chủ điểm nóng hổi của chuyển đổi số và tạo liên kết chuỗi ở Việt Nam là lĩnh vực nông nghiệp. Nhưng trong lĩnh vực này, sự liên kết rất khó khăn như Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan trao đổi: “Hiện đã kết nối được vạn vật, nhưng câu chuyện chỉ kết nối từ cánh đồng đến hệ thống phân phối trong nông nghiệp lại quá khó khăn”. Một nguyên nhân quan trọng là chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế. Là một quốc gia nông nghiệp với khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 66% số hộ, 68% người làm việc; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13,96% GDP, đa số những người này đều cần được tập huấn và đào tạo để có thể trở thành một mắt xích của chuỗi cung ứng mới trên nền tảng đã được số hóa và đồng bộ hóa về dữ liệu.
Hiểu được tầm quan trọng của yếu tố con người mang lại cơ hội cho các công ty theo đuổi các cải tiến chuỗi cung ứng hỗ trợ công nghệ. Các phương pháp tiếp cận kỹ thuật số phù hợp với mọi người có xu hướng đạt được nhiều tác động hơn đồng thời chứng tỏ dễ thực hiện và bền vững hơn theo thời gian. CEO của FPT khi chia sẻ về tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong chuyển đổi số và giúp các doanh nghiệp xây dựng chuỗi cung ứng mới chỉ ra việc các lao động thường chống lại quá trình này vì họ sợ thất nghiệp. Một trong những khó khăn lớn nhất chính là chuyển đổi con người, chuyển đổi tư duy, cách thức làm việc cũ vốn đã ăn sâu vào ý thức của mỗi người. Chứng minh cho người lao động trong các doanh nghiệp thấy họ không mất việc khi chuyển đổi số mà chuyển đổi số còn giúp họ nâng cao năng suất, tăng thu nhập.
Ngay cả những công ty nhận ra sự cần thiết phải áp dụng một cách tiếp cận toàn diện đối với công nghệ chuỗi cung ứng cũng phải đối mặt với một trở ngại lớn khác: chuyển đổi trong bất kỳ bộ phận nào của doanh nghiệp luôn luôn khó khăn. Điều này đòi hỏi các tổ chức phải kết hợp nhiều bộ phận chuyển động, bao gồm con người, quy trình và cơ sở hạ tầng quản lý; đồng thời đòi hỏi họ phải vượt qua tất cả những trở ngại thông thường về kỹ thuật, tổ chức và văn hóa để thay đổi.
Có ba cái bẫy đối với các doanh nghiệp khi thực hiện xây dựng chuỗi cung ứng mới dựa trên công nghệ.
Cái bẫy thứ nhất, thiếu một điểm đến rõ ràng và duy nhất. Trước đây, khi các tổ chức bắt tay vào chuyển đổi, họ có thể bắt đầu bằng cách xác định trạng thái kết thúc mong muốn. Ví dụ, giới thiệu một hệ thống sản xuất tinh gọn là một điều rất khó khăn, nhưng các công ty bắt đầu hành trình tinh gọn của họ ít nhất hiểu được họ muốn mọi thứ hoạt động như thế nào. Tầm nhìn về mục tiêu đó giúp thực hiện các bước đúng theo trình tự và đo lường tiến trình của quá trình chuyển đổi tổng thể dễ dàng hơn nhiều. Hiện tại, các chuyển đổi chuỗi cung ứng được kích hoạt bằng kỹ thuật số không còn xa xỉ như vậy. Công nghệ kỹ thuật số đang phát triển nhanh chóng đến mức không có thời gian để nhiều người trong số họ chứng tỏ bản thân trên qui mô lớn. Không có “mô hình Toyota” của chuỗi cung ứng kỹ thuật số, cung cấp một khuôn mẫu cho các tổ chức khác sao chép.
Cái bẫy thứ hai, các công ty chỉ tập trung vào quy trình. Các công ty đôi khi dành nhiều thời gian và nỗ lực trong việc phát triển các kế hoạch chi tiết cao mô tả chính xác cách thức hoạt động của các qui trình chuỗi cung ứng của họ. Những người khác thậm chí cố gắng thuê ngoài để nghiên cứu về qui trình này, hoặc sao chép kế hoạch của họ từ các mẫu chung chung. Tuy nhiên, khi đến lúc thực hiện phương pháp làm việc mới, cách tiếp cận này thường dẫn đến “đào thải nội tại”. Qui trình là cần thiết, nhưng không đủ để chuyển đổi. Chắc chắn có những nguyên tắc thực hành tốt nhất, ví dụ như trong hầu hết các trường hợp, các chuỗi cung ứng nên có chức năng chéo, không phải kết hợp với nhau. Tuy nhiên, các chi tiết của quá trình phải được đồng tạo bởi sự tham gia của các bên liên quan chính ở tất cả các cấp của tổ chức và được đồng định hướng bởi xây dựng năng lực thực hành và quản lý thay đổi.
Cái bẫy thứ ba, việc áp dụng quan điểm ưu tiên công nghệ. Tại đây, các công ty tìm thấy một cách tiếp cận kỹ thuật số ấn tượng, sau đó tìm kiếm những nơi để áp dụng nó trong chuỗi cung ứng của họ. Làm việc theo cách này, các công ty cuối cùng sẽ số hóa các quy trình hiện tại chưa tối ưu của họ. Thay vì cách làm này, nhiều công ty vừa và nhỏ đang tìm được cách khác để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách tận dụng các FTA hiện có và thương mại điện tử để nhanh chóng mở rộng thị trường và tìm kiếm cách tổ chức chuỗi tối ưu hơn từ thực tiễn kinh doanh. Một nghiên cứu với 530 doanh nghiệp đến từ bốn nước CPTPP là Australia, Mexico, Singapore và Việt Nam cho thấy các điều khoản thương mại điện tử của CPTPP cũng rất quan trọng đối với nhiều doanh nghiệp truy cập và tận dụng dữ liệu xuyên biên giới trong hoạt động kinh doanh của họ. Có tới 65% doanh nghiệp được khảo sát di chuyển dữ liệu qua biên giới; 16% chuyển dữ liệu của cá nhân nước ngoài; 16% chuyển dữ liệu cho các công ty liên kết nước ngoài; và 27% di chuyển dữ liệu từ các nền tảng nước ngoài. Ngoài ra, 41% các công ty được khảo sát sử dụng dịch vụ điện toán đám mây (cũng có thể ngụ ý truyền dữ liệu chéo) để lưu trữ dữ liệu của họ.
Đầu tư vào khả năng phục hồi với các khả năng kỹ thuật số ở các khâu cốt lõi có thể mang lại hiệu quả không chỉ trong dài hạn mà còn trong ngắn hạn. Quan trọng nhất, các công cụ kỹ thuật số có thể cho phép các nhà lãnh đạo doanh nghiệp xây dựng các biện pháp phục hồi cấu trúc của mô hình hoạt động của họ bất kể xảy ra cú sốc ở đâu, như thế nào và khi nào.
Đối với doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh việc thúc đẩy đổi mới và nâng cấp công nghệ để không bị gạt ra khỏi chuỗi cung ứng 2.0, họ còn cần chú trọng hình thành chương trình đào tạo nguồn nhân lực hướng đến bồi dưỡng và học tập suốt đời để có đội ngũ nhân lực ứng dụng được khoa học công nghệ mới. Các doanh nghiệp cũng cần đánh giá đúng về hiệu ứng học tập và mô phỏng của nguồn nhân lực khi áp dụng chuyển đổi số. Đặc biệt, cần xây dựng chương trình bồi dưỡng mới để nguồn nhân lực có thể tương tác với khách hàng và với các đối tác theo một cách thức mới trong không gian kĩ thuật số.
Ở cấp độ quốc gia, các khu công nghiệp và khu kinh tế cần hỗ trợ cho sự phát triển chuỗi cung ứng trong nước để giúp Việt Nam hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu tốt hơn. Chính phủ có thể sửa đổi các qui định về khu kinh tế và khu công nghiệp để chúng có thể là động lực thúc đẩy các mối liên kết chuỗi giá trị và làm cho Việt Nam hội nhập chuỗi cung ứng có chất lượng hơn. Đồng thời, lựa chọn khu công nghiệp và khu kinh tế làm “hình mẫu” cho việc xây dựng các cụm ngành sản phẩm tiềm năng dựa trên tính chuyên môn hóa và chỉ số hội tụ kinh tế địa phương.
Một trong những khó khăn lớn nhất chính là chuyển đổi con người, chuyển đổi tư duy, cách thức làm việc cũ vốn đã ăn sâu vào ý thức của mỗi người. Chứng minh cho người lao động trong các doanh nghiệp thấy họ không mất việc khi chuyển đổi số mà chuyển đổi số còn giúp họ nâng cao năng suất, tăng thu nhập.
TS. PHẠM SỸ THÀNH