FDI “chắp cánh” cho nền kinh tế xanh

0
122
(minh hoạ)
(minh hoạ)
Từ khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới vào năm 1986, Đảng ta đã nhấn mạnh yêu cầu khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam dưới nhiều hình thức. Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào năm 1987 chính là bước đi cụ thể quan trọng đầu tiên, đặt nền móng vững chắc cho quá trình hình thành và hoàn thiện khung pháp lý đối với đầu tư nước ngoài. Quá trình hoàn thiện khung pháp lý đối với đầu tư nước ngoài cũng gắn bó mật thiết với quá trình mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
HÀNH TRÌNH 35 NĂM THU HÚT FDI: TỪ “LƯỢNG” ĐẾN “CHẤT”
Những nỗ lực liên tục, nhất quán theo định hướng trên đã góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành một địa điểm đầu tư an toàn, thuận lợi, bình đẳng và nhiều tiềm năng.
Ngay ở những thời điểm bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều khó khăn (như chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc các năm 2018-2019, hay dịch bệnh Covid-19 trong các năm 2020-2021), sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam chưa bao giờ suy giảm.
Thông qua những đối thoại thẳng thắn với các cơ quan Việt Nam trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19, ở một chừng mực nhất định, cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài đã thể hiện những đóng góp có trách nhiệm của họ đối với việc xác định định hướng và yêu cầu thích ứng, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội bền vững ở Việt Nam.
Thực tế, bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ ngành trong công tác ngoại giao vaccine, cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài cũng đã góp những tiếng nói quan trọng đối với chính phủ các nước để cùng chung tay hỗ trợ vaccine cho người dân Việt Nam.
Các số liệu vĩ mô cũng cho thấy nhiều chuyển biến về “chất” hơn từ các dự án FDI trong những năm gần đây. Vốn FDI thực hiện đã liên tục tăng nhanh trong suốt giai đoạn 2012-2019 (trung bình tăng gần 10,4%/năm), và chỉ giảm tương đối nhẹ trong bối cảnh dịch Covid-19. Vốn FDI cũng quan tâm nhiều hơn đến các lĩnh vực sản xuất, hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ.
Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy trong năm 2021, công nghiệp chế biến chế tạo, và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là hai ngành thu hút được nhiều dự án mới nhất, chiếm lần lượt 30,7%, và 16,7% tổng số dự án mới. Một số dự án FDI lớn (như của Samsung) đã trở thành những ví dụ tiêu biểu về tăng cường kết nối, hỗ trợ nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp cung ứng linh phụ kiện trong nước.
XANH HÓA NỀN KINH TẾ: VAI TRÒ MỚI CỦA FDI
Trước những yêu cầu phát triển mới và nhìn nhận những khó khăn từ đại dịch Covid-19, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm thúc đẩy “xanh hóa” nền kinh tế. Tại COP26, Việt Nam đã đưa ra cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050. Những mô hình kinh tế cụ thể có tính thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có kinh tế tuần hoàn, cũng đang được nghiên cứu, tạo thuận lợi, hướng tới thúc đẩy chuyển đổi xanh ngay trong quá trình phục hồi kinh tế.
Quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế xanh khó có thể đạt hiệu quả cao nếu thiếu sự đồng thuận, chủ động thực hiện của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tế, các dự án FDI bắt đầu có sự chuyển hướng rõ nét. Chẳng hạn, một số dự án năng lượng sạch đã được cấp phép trong thời gian gần đây, như Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu thuộc Trung tâm nhiệt điện LNG Bạc Liêu (Singapore), vốn đầu tư đăng ký 4 tỷ USD (năm 2020), hay dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (năm 2021).
Sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với kinh tế xanh, sản xuất xanh ít nhiều tạo được những tác động lan tỏa tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Một mặt, mô hình khu công nghiệp sinh thái đã được quan tâm nhiều hơn, đi kèm với hoàn thiện chính sách liên quan cũng như sự gia tăng đầu tư của các doanh nghiệp phát triển bất động sản công nghiệp (ví dụ như khu công nghiệp sinh thái Nam Cầu Kiền, hay các khu công nghiệp được chọn làm khu công nghiệp sinh thái trong khuôn khổ Dự án “Triển khai khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình khu công nghiệp sinh thái toàn cầu”…).
Mặt khác ban Quản lý các khu công nghiệp cũng nhìn nhận tích cực hơn về vai trò của việc bảo vệ môi trường như là một yếu tố tiên quyết để thu hút FDI. Trước đây, bảo vệ môi trường thường được nhìn nhận với tác động làm tăng chi phí và, do đó, không đồng nhất với lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, các khu công nghiệp hiện đã quan tâm hơn đến sàng lọc, đánh giá tác động môi trường nhằm bảo đảm các dự án đầu tư sẽ thân thiện với môi trường.
MỨC ĐỘ SẴN SÀNG CỦA VIỆT NAM
Chuyển hướng sang kinh tế xanh không chỉ do sức ép từ các thị trường xuất nhập khẩu, từ các FTA thế hệ mới. Cần lưu ý, Việt Nam nằm trong số các quốc gia được dự báo sẽ chịu tác động nghiêm trọng do tình trạng nước biển dâng. Ở một chừng mực khác, gia tăng xu hướng tiêu dùng bền vững ở Việt Nam đã góp phần tạo “cầu” đáng kể đối với các sản phẩm xanh – điều khó có được trong những năm trước đại dịch Covid-19. Theo đó, thu hút FDI vào các ngành, hoạt động kinh tế xanh được thực hiện một cách tự nhiên, vì chính nhu cầu tự thân của Việt Nam.
Sự quan tâm đi kèm với hiện diện nhiều hơn của các nhà đầu tư nước ngoài cũng khiến các tập đoàn, doanh nghiệp của Việt Nam có thêm động lực đầu tư vào các ngành, hoạt động kinh tế xanh. Không ít doanh nghiệp đã và đang nghiên cứu triển khai các dự án đầu tư theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Các doanh nghiệp khác đã quan tâm hơn đến sản xuất an toàn, sản xuất bền vững không chỉ để đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu, mà còn để được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận.
Dù vậy, Việt Nam còn phải nỗ lực rất nhiều để bảo đảm sẵn sàng phát huy hiệu quả của các dự án đầu tư, kể cả FDI, hướng tới kinh tế xanh, tăng trưởng xanh. Ngay cả trước đại dịch Covid-19, Việt Nam đã gặp phải những vấn đề “trầm kha” ảnh hưởng đến sức lan tỏa của các dự án FDI đối với nền kinh tế.
Trong đó, kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước là không đơn giản, một phần do nhận thức, động lực và tiêu chuẩn, công nghệ của các doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp FDI. Ở các ngành, các hoạt động kinh tế xanh, những chênh lệch này sẽ còn lớn hơn nữa.
Tuy nhiên, nếu xử lý được những rủi ro, chênh lệch nói trên, lợi ích gắn với phát triển bền vững đối với Việt Nam sẽ còn lớn hơn nữa. Điểm quan trọng là các cơ quan, doanh nghiệp không chỉ nhìn vào khía cạnh chi phí của đầu tư, thích ứng đối với kinh tế xanh.
Có thể tin rằng, chuyển đổi lên quy trình xanh, sản phẩm xanh cũng sẽ giúp đầu ra của doanh nghiệp chuyển lên những phân khúc giá cao hơn, có thể bù đắp được phần chi phí gia tăng. Chính ở đây, sự chuyển hướng của FDI sang kinh tế xanh, cùng với các tác động cạnh tranh và/hoặc chuyển giao công nghệ, cần được coi là một xu hướng kinh tế tích cực.

(Nguyễn Anh Dương/ Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here