Tin Kinh tế Bangladesh

0
115
(ảnh minh hoạ)
(ảnh minh hoạ)

1. Dự thảo chính sách ngành nhựa đặt mục tiêu tăng trưởng 15% hàng năm

Các nguồn tin cho biết ngành công nghiệp bao bì và nhựa của Bangladesh dự kiến ​​sẽ tăng trưởng với tốc độ 15% hàng năm và tạo ra việc làm mới cho khoảng 0,5 triệu người vào năm 2026. Bangladesh cũng đã đặt mục tiêu trở thành “quốc gia không rác thải” trong tiêu thụ nhựa và bao bì vào năm 2030. Chính phủ đã đưa ra những mục tiêu này trong dự thảo mới nhất của “Chính sách phát triển ngành nhựa quốc gia năm 2020”.

Bộ Công nghiệp (MoI) đã soạn thảo chính sách và lấy ý kiến ​​từ tất cả các bên liên quan vào tháng 7. Dự thảo chính sách nhằm mục đích xóa bỏ những khó khăn và hạn chế đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp trong ngành trước năm 2022 và đảm bảo thị trường 20 tỷ USD vào năm 2030. Một quan chức của Bộ cho biết họ đang lấy ý kiến ​​và sẽ hoàn thiện dự thảo trong thời gian tới.

Dự thảo chính sách đề cập rằng mặc dù có tiềm năng to lớn, Bangladesh còn lâu mới đạt được lợi thế tiếp cận thị trường ưu đãi trong xuất khẩu sản phẩm nhựa, chủ yếu là do thiếu hỗ trợ chính sách phù hợp và chưa tạo điều kiện kinh doanh. Mặc dù ngành công nghiệp địa phương có triển vọng to lớn để phát triển hơn nữa, nhưng vẫn thiếu cách tiếp cận bài bản và định hướng chiến lược để vượt qua những thách thức mà ngành phải đối mặt. Dự thảo đã xác định việc thiếu các cơ sở kiểm tra chất lượng, công nghệ tiên tiến, thiết kế khuôn và cơ sở sản xuất khuôn, quản lý chất thải nhựa hợp lý, chính sách thuế thân thiện với doanh nghiệp là những thách thức lớn để đạt được sự tăng trưởng mong muốn của ngành.

Khi không có cách tiếp cận chiến lược và lợi thế cạnh tranh riêng biệt, các nhà sản xuất trong nước đang gặp khó khăn để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Dự thảo nêu rõ: “Lưu ý những điều này, chính phủ đã quyết định chuẩn bị và công bố Chính sách phát triển ngành nhựa năm 2020 để đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và theo định hướng mục tiêu của ngành”. Chính sách sẽ đưa ra các hướng dẫn để cải tiến công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, thúc đẩy hợp tác quốc tế và trao đổi công nghệ để đạt được sự năng động hơn trong ngành này.

Các quan chức cho biết, chính sách này cũng nhằm thực hiện các hành động để hướng việc sử dụng nhựa tới một nền kinh tế tuần hoàn (circular economy) bền vững. Chính sách này xác định các biện pháp nhằm giảm thiểu tác hại do chất thải nhựa và rác thải gây ra, giúp người tiêu dùng quản lý chất thải nhựa, nâng cao hiệu quả thu hồi, tái chế và thiết kế sản phẩm, đồng thời tạo môi trường cho các hoạt động đầu tư và đổi mới trong nền kinh tế tuần hoàn. Chính sách đặt mục tiêu giúp các nhà sản xuất ít phụ thuộc hơn vào nguyên liệu hóa thạch bằng cách tăng cường các giải pháp sinh học và phân hủy sinh học, đồng thời giúp tận dụng các công nghệ của Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Shahedul Islam Helal, Giám đốc Hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng nhựa Bangladesh (BPGMEA), cho biết chính sách này là kết quả từ trí tuệ của những người trong ngành, chính phủ và các chuyên gia, tập trung vào tính bền vững lâu dài của ngành.

Theo những người trong ngành, nhu cầu hàng năm trên toàn cầu đối với các sản phẩm nhựa tăng đều đặn với tốc độ hơn 20% kể từ năm 2007. Hiện tại, mức tiêu thụ nhựa bình quân đầu người ở Mỹ là 109 kg, ở Trung Quốc là 38 kg, ở Ấn Độ là 11 kg và 5-7 kg ở Bangladesh, so với mức trung bình toàn cầu là 50 kg/người mỗi năm.

Trích dẫn một báo cáo toàn cầu, dự thảo cho biết thị trường nhựa trên toàn thế giới dự kiến ​​sẽ đạt 721,14 tỷ USD vào năm 2025.

Theo BPGMEA, thị trường tiêu thụ sản phẩm nhựa sản xuất trong nước và nước ngoài đạt khoảng 2,99 tỷ USD, trong đó 83,4% liên kết với thị trường trong nước và 16,6% còn lại liên kết với thị trường toàn cầu.

Thu nhập xuất khẩu từ các sản phẩm nhựa giảm 16,95% xuống 26,17 triệu USD trong quý đầu tiên của năm tài chính hiện tại 2020-21, theo dữ liệu của Cục Xúc tiến Xuất khẩu (EPB). Bangladesh đã thu về 31,51 triệu USD trong giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 9 của năm tài chính trước. Mặt khác, thu nhập từ rác thải nhựa đã tăng hơn 114% trong giai đoạn này.

2. Sử dụng quỹ phát triển tốt hơn, tránh ‘bẫy nợ’

Ngày 27/10/2020, tại buổi thảo luận “Phản ứng đa phương đối với Quan điểm của Covid-19-từ Nam Á”, các nhà kinh tế cho biết các nền kinh tế Nam Á, bao gồm cả Bangladesh, nên sử dụng các nguồn lực dành cho các hoạt động phát triển ở mức tối đa có thể. Họ nhận xét rằng điều này là cần thiết vì sự phụ thuộc của các nền kinh tế này vào các nguồn vốn bên ngoài từ các tổ chức đa phương dường như đang gia tăng. Các quốc gia trong khu vực đã không thể quản lý các nguồn vốn cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và đại dịch Covid-19 đã khiến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn.

Trung tâm Đối thoại Chính sách (CPD) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã phối hợp tổ chức cuộc thảo luận trực tuyến với sự tham gia của các nhà tư vấn từ Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka và Nepal.

Các chuyên gia trong và ngoài nước khuyến nghị nên tiến hành đánh giá so sánh khi lựa chọn nhà tài trợ này thay vì nhà tài trợ khác và tăng cường kỹ năng đàm phán bên cạnh việc kiểm soát việc lựa chọn các ưu tiên phát triển để ngăn chặn khả năng rơi vào ‘bẫy nợ’.

OECD đã chia sẻ báo cáo tài chính đa phương-2020, cho thấy rằng các quỹ phát triển đang tăng trưởng đều đặn và đạt mức cao nhất là 71,9 tỷ USD vào năm 2018. Báo cáo đề cập rằng Liên hợp quốc và Ngân hàng Thế giới chiếm hơn 3/4 quỹ đa phương trong khi các ngân hàng phát triển khu vực và quỹ dọc đang dần có chỗ đứng trong bảng xếp hạng tài trợ đa phương.

Chủ tịch CPD, Giáo sư Rehman Sobhan cho biết các quốc gia ở Nam Á cần lập kế hoạch, chính sách và ưu tiên phát triển của riêng mình, đồng thời giữ quyền kiểm soát đối với chính sách quản lý các nguồn quỹ phù hợp. Về trường hợp của Bangladesh, ông cho rằng tài chính đa phương có vẻ là một bước tiến lớn đối với Bangladesh. Ông nói: “Đó không phải là vấn đề nợ, mà là việc thiếu tận dụng vốn ODA mà trên thực tế đang có”. Ông Sobhan đề xuất tăng cường khả năng sử dụng nguồn tài chính phát triển bên ngoài cùng với việc phân cấp ưu tiên các sáng kiến ​​phát triển.

Cựu cố vấn tài chính ABM Azizul Islam cho biết có một số điều kiện do quỹ phát triển đặt ra hoàn toàn vô nghĩa. Ông cho rằng Bangladesh cần nâng cao năng lực trong các lĩnh vực khác nhau do bộ máy hành chính không có đủ năng lực, trong một số trường hợp không thể xác định đúng nhu cầu tiền viện trợ trong các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, có dự án do các nhà tài trợ lựa chọn chứ không phải các cơ quan trong nước. “Một số dự án là tốt nhưng không mang lại lợi ích cần thiết cho đất nước”.

Nói về vấn đề dư nợ, Tiến sĩ Debapriya Bhattacharya, CPD, cho biết hầu hết các khoản vay trong nước không được xem xét kỹ lưỡng trước khi thực hiện hoặc đàm phán. “Chúng ta thực sự không có một khung đánh giá cụ thể trong quá trình đưa ra lựa chọn”, ông đề xuất rằng cần phải thực hiện việc đánh giá so sánh kỹ lưỡng trước khi lựa chọn nguồn vay.

3. Lương tối thiểu đối với lao động nông nghiệp và thu mua lương thực dự trữ quốc gia

Chính phủ đã bãi bỏ Sắc lệnh Lao động Nông nghiệp năm 1984 để tạo điều kiện thực hiện quyền của người lao động theo Đạo luật Lao động 2006.

Các nhà kinh tế và chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp hoan nghênh việc bãi bỏ Sắc lệnh Nông nghiệp năm 1984 để thể chế hóa tiền lương tối thiểu và các quyền khác cho lao động nông nghiệp. Động thái mới này của chính phủ có khả năng đảm bảo sự công bằng về mức lương cho người lao động làm nông nghiệp theo cơ cấu tiền lương chính thức.

Hoan nghênh bước đi này của chính phủ, các nhà kinh tế và các nhà phân tích cho rằng đây sẽ là bước đầu tiên hướng tới việc chính thức hóa tiền lương của lực lượng lao động lớn nhất đã gần như bị bỏ quên trong nhiều thập kỷ ở Bangladesh. Các cá nhân và doanh nghiệp nông nghiệp sử dụng lao động nông nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi từ động thái này vì nó sẽ giữ mức lương ổn định.

Theo Sắc lệnh vừa bị bãi bỏ, mức lương tối thiểu cho lao động nông nghiệp một ngày phải bằng giá của 3,27kg gạo và quy định lập Hội đồng Mức lương và Giá tối thiểu cho Lao động Nông nghiệp. Nay, chính phủ hiện có thể giải quyết mức lương tối thiểu và các vấn đề khác của công nhân nông nghiệp theo Luật lao động.

Theo quy định của Luật lao động, lao động nông nghiệp là người được thuê làm công việc nông nghiệp theo hợp đồng hàng ngày, hàng tháng, hàng năm hoặc một công việc cụ thể.

Các chuyên gia cho biết mức lương hàng ngày của người lao động nông nghiệp có sự biến động lớn do chưa có khung pháp lý. Họ cho biết mức lương tối thiểu sẽ dễ dàng được thực hiện đối với những lao động nông nghiệp được các công ty và cá nhân thuê theo hợp đồng thời vụ hoặc hàng năm.

(Đại sứ quán Việt Nam tại Bangladesh)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here